
Lư Sơn ở phía Bắc tỉnh Giang Tây - quê hương của nghề
 gốm sứ - phía Nam giáp thành phố Cửu Giang - phía Bắc giáp sông Trường 
Giang, phía Đông nam gần hồ Phàn Dương. Diện tích của Lư Sơn rộng gần 
250km2. Đây là một quần thể gồm hơn 90 ngọn núi, cao nhất là 
ngọn núi Đại Hán Đường cao 1.500m so với mặt biển. Theo sử sách cổ xưa 
thì quần thể núi giống như những cái lò hương nên gọi là Lư Sơn (lư có 
nghĩa là cái lò). Ngoài Lư Sơn còn có các ngọn núi khác như Khuông Sơn, 
Phụ Sơn, Thiên Tử Quận, Thiên Tử Chương, Nam Chương Sơn. Đặc điểm của Lư
 Sơn là núi cao chập chùng, mây bao phủ và những ngọn thác trắng xóa đổ 
nước từ trên cao mà trong bài thơ "Vọng Lư Sơn bộc bố" (Ngắm thác núi 
Lư), nhà thơ Lý Bạch (701- 762) đã miêu tả:
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng giải ngân hà tuột khỏi mây.
(Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên).
Lý Bạch tính tình lãng mạn, phóng khoáng, thích thần 
tiên sơn thủy nên đã đến Lư Sơn và thốt lên rằng: "Ta đi khắp thiên hạ, 
du lãm sông sâu núi cao chập chùng vây quanh, ít người đi qua, núi 
Khuông Lư đúng là kỳ quan trong thiên hạ". Chu Nguyên Chương từng phong 
cho Lư Sơn là "Lư Nhạc", ngang bằng với "Ngũ Nhạc" tỉnh Sơn Đông. Âu 
Dương Tu, nhà thơ đời Tống, đã từng ca ngợi Lư Sơn: "Núi Lư cao thay, 
sừng sững đứng ở bên sông Trường Giang" (Lư Sơn cao tại nga nhiên ngật 
lập Trường Giang). Mao Trạch Đông cũng đã từng đến Lư Sơn và làm thơ đề 
vịnh. 
Hình thế của Lư Sơn rất đặc biệt, núi non sông hồ bao
 bọc, sương mù và mây che dày đặc, thiên hình vạn trạng thay đổi. Trên 
núi có trồng trà Vân Vụ nổi tiếng. Nói đến Lư Sơn là nói đến những ngọn 
thác nước trắng tuôn chảy tuyệt đẹp, trong đó thác núi Khuông Lư được 
coi là "một trong ba kỳ quan thiên hạ". Thác núi Hương Lư cũng là một 
danh thắng mà Lý Bạch đã miêu tả trong bài thơ Đường "Vọng Lư Sơn bộc 
bố" (Ngắm thác núi Lư). Lư Sơn có suối Tam Điệp nước chảy róc rách suốt 
ngày đêm, được coi là "tráng quan kỳ tuyệt". Suối Tam Nguyệt bắt nguồn 
từ núi Đại Nguyệt rồi hợp lưu phía sau núi Đại Lão.
Lư Sơn có thành Cỗ Lũng nằm ở vị trí trung tâm, ba 
mặt có núi bao bọc, một mặt gần hang sâu, thành cao cách mặt biển 
1.164m, rộng hơn 46,6km2 tạo thành một nơi "Đào viên tiên 
cảnh" rất độc đáo. Ngày nay đến Lư Sơn, du khách bị thu hút bởi vô số 
biệt thự, nhà hàng, khách sạn, nơi vui chơi giải trí tuyệt hảo. Nơi đây 
trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa và chính trị của Lư Sơn. Nói đến Lư
 Sơn, ngoài phong cảnh ưu mỹ, còn là một trung tâm Phật giáo của Trung 
Quốc. Toàn bộ quần thể núi có hơn 380 chùa miếu nằm rải rác khắp nơi, 
trong đó có 3 chùa lớn kiến trúc độc đáo, dáng vẻ trang nghiêm được 
nhiều người chiêm bái là chùa Đông Lâm, Tây Lâm và Đại Lâm gọi là "tam 
đại danh tự". Các chùa khác như Tú Phong, Hải Hội, Văn Sam, Thế Hiền và 
Quy Tông thì gọi là "tam đại tùng lâm". Chùa Đông Lâm được coi là chùa 
lâu đời và tiêu biểu nhất.

Năm Thái Nguyên thứ 6 (382), đời Tấn, một vị cao tăng
 tên là Tuệ Viễn đi về phương Nam để truyền pháp, đến Tần Dương thấy Lư 
Sơn đất trống người thưa có thể nghỉ ngơi, liền trú ngụ lại để giảng 
pháp, ngắn ngủi được 3 năm, tín đồ tập trung rất đông, được Thích sử 
Giang Châu tôn kính, cho lập chùa, được triều đình ủng hộ, bách tính 
giúp đỡ, chùa được xây dựng rất nhanh. Năm Thái Nguyên thứ 15 (390), 
thấy cơ duyên đã thành, ông cho mời 123 người theo tu. Trong đó bậc cao 
hiền có 18 người. Ngoài ra còn có đạt quan, quý nhân, học giả, ẩn sĩ và 
Tuệ Viễn thành lập xã đoàn Phật giáo đầu tiên ở Trung Quốc, gọi là Bạch 
Liên Xã. Bạch Liên Xã lấy chùa Đông Lâm làm trung tâm Phật giáo của Lư 
Sơn và Lư Sơn trở thành trung tâm Phật giáo của miền Nam Trung Quốc. Tuệ
 Viễn người có công lớn đầu tiên đề xướng "Pháp môn Di Đà tịnh thổ", nay
 gọi là "Tịnh độ tông", liên kết với Liên xã gọi là Liên tông. Chùa Đông
 Lâm là tổ đình của Tịnh độ tông. Tuệ Viễn được xem là người đầu tiên 
sáng lập tông phái và gọi là "sơ tổ".
Chùa Đông Lâm được xây dựng từ đời Tấn, sau đó được 
tu sửa và đến thời Lương Nguyên đế Nam triều xây thêm gác (các), trở 
thành ngôi chùa trang nghiêm, bề thế nhất ở Lư Sơn. Thích sử Giang Châu 
cho xây một ngôi chùa khác ở phía Đông chùa Tây Lâm và càng làm tăng 
thêm vị trí quan trọng của chùa Đông Lâm.
Tuệ Viễn trụ trì chùa Đông Lâm 36 năm, chuyên tâm 
hoạt động Phật giáo và nguyên cứu Phật học. Chùa Đông Lâm từ đó trở 
thành tổ đình của Phật giáo "Tịnh độ tông", ảnh hưởng rất lớn đến các 
nước Đông á, Nam á và Trung á. Một thời gian chùa Đông Lâm trở thành 
Thánh địa Phật giáo duy nhất ở miền Nam. Ngày nay đến viếng thăm, khách 
thập phương rất ngỡ ngàng trước sự đổi thay to lớn của chùa Đông Lâm. 
Thời xưa Lư Sơn còn vắng vẻ, ngày nay là vô số những tòa nhà trang 
nghiêm, hoành tráng, tọa lạc giữa chốn núi non hùng vĩ. La Hán Đường 
thênh thang rất hấp dẫn khách hành hương và người tham quan vãn cảnh rất
 đông. Đêm nằm nghe tiếng chuông chùa ngân vang hòa cùng tiếng thác nước
 reo, mọi người như lạc vào chốn bồng lai ở Lư Sơn. 

Các nhà thơ lớn đời Đường như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Mạnh 
Hạo Nhiên, Bạch Cư Dị, Hàn Dũ, Lý Kỳ, Vương Xương Linh, Lý Đoan, Vi Ứng 
Vật, Trương Cửu Linh, Trương Kiều, Đỗ Tuân Hạc đều đến thăm chùa Đông 
Lâm và để lại nhiều thi phẩm: "Đầy chùa có vạn bài thơ vịnh, mỗi bước 
mỗi động lòng (mãn tự vạn thi vịnh, nhất bộ nhất kinh tâm). 
Năm Thiên Bảo thứ 9 (750) một Đại sư Nhật Bản đã đến 
thăm chùa và quyết định đem giáo lý của "Tịnh độ tông" truyền bá sang 
Nhật Bản. Từ đó, chùa Đông Lâm là cái nôi của "Tịnh độ tông" và phong 
cảnh tuyệt mỹ của Lư Sơn đã thu hút sự chú ý của các nhà sư cũng như dân
 chúng Nhật Bản. Năm 1317, nhiều người Nhật vượt biển sang Lư Sơn đến 
"Tầm sư cầu đạo" tại chùa Đông Lâm. Sau khi về nước, các nhà sư Nhật Bản
 đã truyền bá và phát triển "Tịnh độ tông". Từ đó, địa danh Lư Sơn trở 
nên nổi tiếng ở Nhật Bản. Năm 1987, một đoàn các nhà sư Nhật Bản đến 
viếng chùa tổ Đông Lâm. Hiện nay ở Lư Sơn có "Phụng tán hội Pháp sư Tuệ 
Viễn" của Nhật Bản sáng lập để ghi nhớ công lao của vị Tổ sư Trung Quốc.

Lư Sơn còn là "Thánh địa" của Đạo giáo. Lục Tĩnh Tu 
là bậc thầy của đạo giáo, năm 461 ông đến Lư Sơn, xây dựng "Thái Hư 
Quan" và cùng với Phật giáo chia địa phận tôn thờ ở vùng đất này. Vua 
Đường Huyền Tông phong Đạo giáo Lư Sơn là "Cửu phận sứ giả" và xây dựng 
nơi đây thành "Cửu thiên sứ giả miếu" ngang bằng với Ngũ Nhạc và làm cho
 Lư Sơn cũng trở thành "Thánh địa" của Đạo giáo Trung Quốc. Đến đời 
Tống, "Cửu thiên sứ giả miếu" được đổi tên là "Thái Bình Cung".
Trên núi Lư Sơn còn lưu lại một thư viện nhân văn cổ 
tích mà người đề xướng xây dựng là nhà lý học nổi tiếng đời Tống Chu Đôn
 Di. Lư Sơn còn là trung tâm văn hóa, giáo dục và nơi có nhiều bảo tàng,
 thư viện, lớp học, trong đó đáng chú ý nhất là Bạch Lộc Động. Cuối đời 
Đường, có nhiều người tìm đến Bạch Lộc Động để học tập, đọc sách, nghiên
 cứu Phật học và giao lưu văn hóa. Về sau, Bạch Lộc Động được đổi tên là
 "Lư Sơn quốc học". Chu Hy, một bậc thầy đại Nho thời Tống, đã đến học ở
 "Lư Sơn quốc học" 3 năm.
Lư Sơn ngày nay đổi khác, vẻ cổ xưa và hiện đại hòa 
lẫn. Nơi được coi là "Thánh đường" của tôn giáo, trở thành trung tâm văn
 hóa, du lịch thu hút hàng triệu người trong và ngoài nước hành hương. 
Bạch Lộc Động thời xưa nay là di tích lịch sử trọng điểm quốc gia. Giáo 
đường mọc lên khắp vùng núi non ở Lư Sơn. Người ngoại quốc, người Trung 
Quốc tập trung cư ngụ đông đảo ở Lư Sơn. 
Ở Lư Sơn, ngoài Phật giáo, Đạo giáo, hiện nay còn có hơn 30 Giáo hội 
Cơ đốc giáo của hơn 20 quốc gia Âu Mỹ như Anh, Mỹ, Đức, Thụy Điển, Ý, 
Áo, Na Uy, Úc, Phần Lan, Canada, Thụy Sỹ. Năm 1959, sau 10 năm nước 
Trung Hoa mới ra đời, cố thủ tướng Chu Ân Lai đến thăm chùa Đông Lâm và 
chỉ thị trùng tu chùa. Từ đó đến nay, chùa Đông Lâm được nhà nước đầu tư
 nhiều kinh phí, tu sửa khang trang và trở thành trung tâm Phật giáo lớn
 của Lư Sơn và là nơi trọng điểm du lịch văn hóa Phật giáo Trung Quốc 
cùng với chùa Trúc Lâm ở Hà Nam và chùa Hàn Sơn ở Giang Tô. Năm 1982, Lư
 Sơn được công nhận là khu danh lam thắng cảnh cấp quốc gia, và năm 
1996, Lư Sơn trở thành cảnh quan di sản quốc tế. Vinh dự đó trước hết là
 công lao tạo dựng của những người thành tâm kính đạo Trung Quốc từ bao 
đời nay.