2000 năm nay Phật Giáo hoằng truyền tại Trung
Quốc từ việc phiên dịch kinh điển từ Phạm văn thành văn Trung Quốc số
trên ngàn bộ xây dựng chùa chiền trên một vạn ngôi, trong đó Phật tự là
nơi thể hiện văn hóa của Phật Giáo đồng thời cũng là nơi giới thiệu giáo
nghĩa của Phật đà và những phương pháp tu tập của Phật Giáo, đây là cơ
sở chính trong việc hoằng giáo của Tăng lữ Phật Giáo với công cuộc phổ
cập Phật Giáo đến dân gian.
Trong đó nghệ thuật kiến trúc và tư
tưởng truyền thống văn hóa Trung Quốc, đặc biệt triết học cổ đại Trung
Quốc, điêu khắc, thư pháp và các loại tạo hình nghệ thuật khác được hổ
tương thẩm thấu hòa hợp thành một di sản nghệ thuật Phật Giáo cụ bị văn
hóa truyền thống Trung Quốc có ý nghĩa thẩm mỹ và nghệ thuật cao siêu.
Hình tượng nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo thể hiện nội hàm văn hóa và
lịch sử phát triển của Phật Giáo Trung Quốc.
Nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo Trung
Quốc là sự thể hiện công năng, hình thức của Phật Giáo ra bên ngoài,
phục vụ cho công việc tuyên truyền giáo nghĩa, ý niệm của Đạo Phật,
xuyên qua ý thức và sùng bái, sự trừu tượng của ý thức được thể hiện qua
hình thể của nghệ thuật kiến trúc, cụ thể và dễ làm cho người sùng kính
Phật Giáo tiếp xúc với giáo nghĩa của Đức Phật. Phật Giáo từ các vật
thể kiến trúc thể hiện cảnh giới cực lạc để đối lập với cảnh giới khổ
hải của nhân sinh. Hình tượng của Đức Phật được miêu tả một cách tôn
kính thể hiện tính cách tôn nghiêm oai hùng dựa theo kinh điển của Phật
Giáo để hình tượng hóa, hướng dẫn cho người học Phật qua hình tượng nghệ
thuật cũng như kiến trúc cảm thọ được nội hàm của Phật Giáo, dần tiến
tới lĩnh ngộ chơn đế của Phật Giáo.
Chúng ta có thể nhận thấy từ sự tìm
những địa điểm các ngôi chùa Phật Giáo Trung Quốc, sự sùng thượng về
thanh tịnh, tinh khiết, siêu thoát trần duyên, tịnh hóa ý thức. Từ bố
cục kiến trúc của ngôi chùa ta có thể trực ngộ Phật Giáo truy cầu sự
quân bình và thống nhất, trang nghiêm trân trọng, trật tự của một Phật
quốc thanh tịnh. Từ điện đường lầu các, quan sát thể nghiệm được quả vị
tu hành của Phật Giáo, thông qua những phương thúc tu hành, công năng tu
tập để đạt đến quả vị tu tập cuối cùng là Niết Bàn tịch tịnh.
Mộ cổ thần chung, thể hiện lối sống tỉnh
thức của Đạo Phật, giải trừ phiền não nhân sinh. Xá Lợi là tiêu chí
tượng trưng của Niết Bàn và sự tu chứng quả vị của Đạo Phật, cho nên
thông qua tầng tầng lớp lớp vươn cao của tháp Xá Lợi, trên bảo tòa liên
hoa tháp sát kim quang xán lạn, khiến cho người học Phật khi đối diện
trước tháp phải cung kính cuối đầu, khởi niệm lễ bái quán niệm công đức
của chư Phật mà phát tâm tu hành. Không những như thế, cho đến hình thức
của tháp cũng tượng trưng cho sự xiển dương giáo lý Đạo Phật, tháp
vuông 4 góc tượng trưng cho Tứ Thánh Đế, Lục Độ, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị
Nhân Duyên.v.v… tháp hình tròn biểu thị cho viên mãn, viên thông, viên
dung của Phật Giáo.
Trong kết cấu kiến trúc của Phật Giáo
bao gồm cả thế giới và vũ trụ quan, chư Phật Bồ Tát, la Hán, chư Long
Thiên và các vị thần Hộ Pháp, tổ hợp phức hợp này tạo thành một thế giới
thần kỳ, một trận đồ dung nạp khái quát, khái niệm pháp giới, vũ trụ
quan của Phật Giáo, thế giới quan này thể hiện thiện ác phân minh, phước
họa rõ ràng, trừ ma giáng phước và những chức trách phổ độ chúng sanh
cùng những pháp lực tôn giáo làm cho tổ hợp không gian kiến trúc của
ngôi chùa thể hiện đầy đủ tính cách thần bí linh thiêng, thoát tục siêu
phàm vốn có của kiến trúc tôn giáo.Ví dụ Trung Quốc Phật Giáo Tứ Đại
Danh Sơn, gồm những quần thể kiến trúc tự viện, phụng thờ riêng biệt
riêng biệt 4 vị Bồ Tát tượng trưng cho tinh thần cốt lõi của Đại Thừa
Phật Giáo: “Trí, Hạnh, Bi, Nguyện”. Bốn vị Bồ Tát được phụng thờ: Ngũ
Đài Sơn-Văn Thù Bồ Tát, Nga Mi Sơn- Phổ Hiền Bồ Tát, Phổ Đà Sơn-Quan Thế
Âm Bồ Tát, Cửu Hoa Sơn-Địa Tạng Bồ Tát.
Một số tự viện là tổ đình của một tông
phái hoặc là đại diện cho một hệ tư tưởng của Phật Giáo như: Triết Giang
Thiên Đài Quốc Thanh Tự-Tổ Đình Thiên Đài Tông; Giang Tô Nam Kinh Thê
Hà Tự-Tổ Đình Tam Luận Tông; Thiểm Tây Tây An Từ Ân Tự-Tổ Đình Pháp
Tướng Duy Thức Tông; Sơn Tây Đại Đồng Hoa Nghiêm Tự-Tổ Đình Hoa Nghiêm
Tông; Tây An Chung Nam Sơn Tịnh Nghiệp Tự-Tổ Đình Luật Tông; Thiểm Tây
Tây An Đại Hưng Thiện Tự-Tổ Đình mật Tông; Thiểm Tây Tây An Hương Tích
Tự-Tổ Đình Tịnh Độ Tông; Hà Nam Tung Sơn Thiếu Lâm Tự-Tổ Đình Thiền
Tông; Đây là những chốn tổ của 8 tông phái lớn của Phật Giáo Trung Quốc,
những ngôi tự viện này có phong cách kiến trúc, bố cục bài trí kiến
trúc đều thể hiện tư tưởng quan niệm của tông phái mình, sự kết hợp hài
hòa giữa địa vực phong cách kiến trúc dân gian địa phương và hình chế
kiến trúc Phật Giáo.
Phật tự Trung Quốc, Phật tháp Trung Quốc
hình chế được diễn hóa theo phong cách kiến trúc Trung Quốc. Kinh
Tràng, bia đá, tượng Phật và bích họa của Phật Giáo Trung Quốc trãi qua
quá trình hòa nhập, phát triển đã tạo cho mình một phong cách riêng
biệt, và có thể đại diện cho phong cách của từng thời đại nghệ thuật văn
hóa Phật Giáo, cũng như sự phát triển của Phật Giáo trong nền văn hóa
tư tưởng nghệ thuật truyền thống cổ đại Trung Quốc. Nói khoa trương một
chút kiến trúc Phật Giáo mỗi tòa là một hình tượng xinh động về nghệ
thuật, là bảo tàng quí giá nghệ thuật kiến trúc Trung Quốc.
Nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo Trung
Quốc khắc sâu và phản ánh tư tưởng văn hóa truyền thống cổ đại Trung
Quốc. thời cổ đại Trung Quốc tư tưởng Nho gia có địa vị chủ đạo về tư
tưởng, tinh thần của xã hội phong kiến Trung Quốc. Sau khi Phật Giáo
truyền nhập vào Trung Quốc với giáo nghĩa nhân quả báo ứng, sanh tử luân
hồi và đề ra một phương pháp lễ Phật tu hành, khắc phục dục vọng, tích
thiện tích đức, nương nhờ những công đức này mà thoát ly khổ nạn, đạt
đáo quả vị Phật thừa, đây là con đường thăng hoa của nhân sanh và thực
hiện nhân cách của sinh mạng.
Ngũ giới, Thập Thiện cùng với chủ trương
thưởng thiện phạt ác, những giá trị tinh thần này được phổ biến cùng
khắp xã hội cổ đại Trung Quốc. Một số nghĩa lý của Phật Giáo có sự tương
thông với tư tưởng Nho gia. Nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo phản ánh rõ
ràng những đặc trưng về truyền thống tư tưởng văn hóa cổ đại Trung Quốc,
đều do văn hóa Phật Giáo và lễ chế của Nho gia tương dung, rõ ràng nhất
Trung Quốc Phật tự là sự chuyển hóa từ thể chế quan thự phong kiến, và đẳng cấp theo quan niệm tư tưởng của lễ chế Nho gia. Đây là đặc trưng điển hình của kiến trúc Hán truyền Phật Giáo.
Kiến trúc Hán truyền Phật Giáo có ảnh
hưởng rất lớn tại Trung Quốc, từ bố cục của kiến trúc cho đến hình thể
của kiến trúc tự viện, kết cấu nội ngoại trang trí đều có sự ảnh hưởng
sâu đậm của lễ chế Nho gia, trong quan niệm và chế độ “lễ vi thiên hạ
chi tự” sự can thiệp mạnh mẽ về luân lý và qui phạm chính trị.
Đồng thời do sự ảnh hưởng của quan niệm
âm dương vũ trụ và triết học nhân sinh, sùng thượng đối xứng, quân bình,
ổn định tâm lý thẩm mỹ này hoàn toàn chi phối việc chọn nơi làm chùa
cũng như hình chế của tự viện, cường điệu lý niệm “ thiên nhân hợp”, “biện phương chánh vị”,
làm cho kiến trúc của Phật Giáo dung nhập vào hoàn cảnh của tự nhiên,
mặt bằng kiến trúc thường xử dụng hình vuông lấy tâm điểm đặt để kiến
trúc theo thứ tự và đối xứng cấu thành một quần thể kiến trúc trang
nghiêm trật tự và khí thế.
Từ những hình chế của kiến trúc tự viện
như quy mô , số lượng, to nhỏ, cao thấp, sâu rộng, giá đỡ và những số
tầng của bảo tháp, những đồ hình trang trí trên nóc chùa.v.v… đều có
những quy phạm nghiêm khắc hạn chế và qui định của lễ chế phong kiến.
Kiến trúc Phật Giáo được sử dụng con số kiết tường đặc trưng của thể chế
phong kiến Trung Quốc như số 9 hoặc là 99 và các hình tượng tượng trưng
tôn quí cát tường của kiến trúc cung điện Trung Quốc.
Bất cứ là chùa xây dựng trên núi hoặc
làm ở dưới đồng bằng, nơi thờ tự Đức Phật cũng như hoạt động các nghi
thức tôn giáo là kiến trúc chính trong quần thể kiến trúc của Phật Giáo
được chú trọng đặc biệt trong việc kiến tạo cũng như loại hình kiến trúc
và trang trí kiến trúc, vị trí kiến trúc thể hiện rõ ràng sự tôn quí
cũng như quan trọng của kiến trúc này.
Quan niệm và luân lý truyền thống cổ đại Trung Quốc cho rằng trong quần thể kiến trúc, Điện
có địa vị thần thánh và được tôn sùng cao nhất, duy chỉ có nhà vua
thương nghị triều chính cử hành các đại lễ của quốc gia, lễ tế thiên địa
thần linh và liệt vị tổ tông tiên đế mới đủ tư cách được gọi là Điện, nơi cung phụng Phật tượng, lễ Phật, tụng Kinh được đặc cách tôn xưng là Điện.
Đại đa số các tự viện Phật Giáo ngoài
Đại Hùng Bảo Điện ra còn có Bồ Tát điện, Thiên Vương điện, La Hán đường,
hai bên sơn môn còn có lầu chuông trống nghiễm nhiên đây là lễ chế kiến
trúc của Cung Điện và Quan Thự mà Phật Giáo được hoàn toàn sử dụng trong công trình kiến trúc tôn giáo mình.
Tự viện Trung Quốc chiếu theo sự hoằng
truyền và ảnh hưởng của chùa, cũng như cấp độ trọng thị của nhà vua mà
qui hoạch theo những đẳng cấp đã được qui định. Đẳng cấp và địa vị cao
nhất là hoàng gia công đức tự, thứ đến là sắc kiến quốc tự, mỗi địa
phương gồm có tự viện của kinh đô, của châu, quận, huyện.v.v…
Những ngôi chùa có đẳng cấp thấp nhất
như am viện, lan nhã trong núi rừng, Phật tự địa vị càng cao thì qui mô
càng lớn, viện thất càng nhiều, đại điện giá đỡ số tầng lớp được nâng
cao, nghệ thuật kiến trúc cũng như trang trí thể hiện rõ ràng sự tôn quí
hoa lệ. Các vị vua thường sắc phong khâm định chức vị trụ trì các ngôi
quốc tự, ban tứ tự hiệu cho các ngôi chùa cũng như đề thơ lập bia để phổ
cáo trong thiên hạ.
Chúng ta từ việc này có thể cảm thọ được tư tưởng văn hóa truyền thống Trung Quốc ảnh hưởng sâu sắc đến nền Nghệ Thuật Kiến Trúc Phật Giáo Trung Quốc. (Hết)




Ngũ Đài Sơn-Văn Thù Bồ Tát




Nga Mi Sơn-Phổ hiền Bồ Tát



Cửu Hoa Sơn-Địa Tạng Bồ Tát


Phổ Đà Sơn-Quán Thế Âm Bồ Tát


Thiểm Tây-Tây An-Đại Hưng Thiện Tự-Tổ Đình Mật tông



Thiểm Tây-Tây An-Hương Tích Tự-Tổ Đình Tịnh Độ Tông



Thiểm Tây-Tây An-Tịnh Nghiệp Tự- Tổ Đình Luật Tông


Giang Tô-Thê Hà Tự-Tổ Đình Tam Luận Tông

Hà Nam-Tung Sơn Thiếu Lâm Tự-Tổ Đình Thiền Tông


Thiểm Tây-Tây An-Hoa Nghiêm Tự-Tổ Đình Hoa Nghiêm Tông