Có vẻ như họ luôn có ý thức duy trì và bảo tồn các giá trị sinh
hoạt Phật giáo truyền thống, vốn là nền tảng vững bền của sự giải
thoát. Rất ít tăng ni có huynh hướng vượt rào, thoát ly các giá trị
truyền thống ....
Nhận lời mời của một số tự viện Hàn Quốc, ni trưởng Thích Nữ Huệ Giác
- phó Ban trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Đồng Nai, viện chủ Quan Âm Tu
Viện, Biên Hòa - đã hướng dẫn phái đoàn môn phái Phật giáo Liên Tông
Tịnh Độ Non Bồng hành hương chiêm bái tự viện Hàn Quốc từ ngày 15 đến
20/7/2008.
Tháp tùng cùng ni trưởng Trưởng môn phái Phật giáo Liên Tông Tịnh Độ
Non Bồng có: ni sư TN Kim Sơn - giáo thọ Trường Sơ - Trung cấp Phật học
tỉnh Đồng Nai, ni sư TN Diệu Tường - trụ trì chùa Bửu Quang, Q8, TP
HCM, đại đức Thích Minh Trí - trụ trì chùa Phúc Lâm, Biên Hòa, sư cô TN
Hương Nhũ - Tiến sỹ Phật học, giảng viên Học viện Phật giáo Việt Nam
tại TP HCM, sư cô TN Vạn Hạnh - ni chúng Quan Âm Tu Viện, Biên Hòa và
12 phật tử.
Tại Hàn Quốc, phái đoàn lần lượt hành hương chiêm bái những ngôi danh
lam cổ tự nổi tiếng ở thủ đô Seoul và thành phố Suanbo, Hàn quốc như:
Chog Ye Sa, Pong Um Sa, Yong Mun Sa, Yong Yu Sa, To Un Sa, Sook Kuk Sa,
Pong Kuk Sa, Pong Won Sa v.v …


Bên cạnh đó, đoàn còn tham quan một số di tích lịch sử văn hóa Hàn
Quốc như: Cung điện Hoàng gia Kyeongbok được xây dựng dưới triều đại
Joseon bởi vua Taejo năm 1395, Viện bảo tàng Dân gian Seoul, Làng Văn
hóa Dân tộc Nam San.
Dưới sự hướng dẫn khéo léo và ứng xử linh hoạt của ni trưởng trưởng
đoàn, mỗi tự viện mà đoàn đến, các thành viên trong đoàn đều trang
nghiêm lễ Phật, nguyện cầu quốc thái dân an, phát tâm cúng dường Tam
Bảo, và được Ban quản trị các ngôi danh lam cổ tự Phật giáo Hàn Quốc
tiếp đón trọng thị, thắm tình đạo vị.


Xúc động nhất là khi phái đoàn đến chiêm bái chùa Yong Yu Sa (Cối
Nham Tự), tọa lạc trong cảnh núi rừng trùng điệp, tiếng suối róc rách,
chim hót líu lo, không gian tĩnh lặng gần sát biên giới Nam-Bắc Triều
Tiên. Là chứng nhân lịch sử từng ‘thực mục sở thị’ và thấu hiểu nỗi
thống khổ khi đất mẹ Việt Nam bị chia cắt thành hai miền Nam Bắc bởi
ngoại bang, ni trưởng Huệ Giác cử đại đức Minh Trí gióng Đại Hồng Chung
và chỉ đạo tất cả thành viên trong đoàn tĩnh tọa tụng kinh, niệm Phật
trong ngôi già lam này để nhất tâm cầu nguyện cho chiến tranh hận thù
mau chấm dứt, hòa bình thống nhất sớm trở về trên bán đảo Triều Tiên.


Có thể, do rừng núi chiếm 70% diện tích của Hàn Quốc, lại được dân
chúng có ý thức bảo vệ rừng và có cách tiếp cận môi trường sinh thái
tốt, - ngay cả thủ đô Seoul cũng tọa lạc trong cảnh núi rừng cây cối
xanh tươi, và xung quanh là tám ngọn núi sừng sững cao vút, - nên đa
phần chùa chiền Hàn Quốc đều tọa lạc giữa núi non hùng vĩ, phong cảnh
hữu tình.
Du khách thật khó mà tìm thấy bất cứ một cảnh mại mãi xô bồ hay nạn
xâm lấn đất chùa làm nơi cư trú, mưu sinh nào của quần chúng trước và
trong các ngôi chùa ấy. Trái lại, người ta rất dễ nhận thấy sự thuần
thành, sự tín tâm, sự kính trọng quý tăng ni - dù là tăng ni ngoại
quốc, - và ý thức tự giác tu tập cao của các phật tử Hàn Quốc. Mỗi khi
bước vào chốn thiền môn này, họ tự lấy tọa cụ trải ra, rồi ngồi bán già
hay kiết già trên tọa cụ, lặng lẽ một mình tụng kinh, lễ Phật mà không
phải đợi đến lúc có khóa lễ chính thức.


Qua một số tự viện mà đoàn đến chiêm bái, theo quan sát cá nhân,
người viết thấy rằng kiến trúc trong các tự viện Hàn Quốc là một thể
thuần nhất, gần như giống nhau, - kể cả những ngôi già lam hiện đang
trùng tu hay đang tân tạo. Khác hẳn với tính thuần nhất của kiến trúc
tự viện Hàn Quốc, kiến trúc tự viện Việt Nam lại mang tính đa dạng.
Sở dĩ có tính đa dạng về kiến trúc này là do phong tục, tập quán và
sinh hoạt Phật giáo mỗi miền của nước ta mỗi khác nhau đã hình thành
nên bản sắc kiến trúc tự viện của mỗi miền cũng mỗi khác nhau. Chẳng
hạn, kiến trúc tự viện miền Bắc có tính truyền thống, miền Trung đa
phần mang phong cách kiến trúc cung đình và miền Nam có tính cởi mở, -
có thể do Phật giáo miền Nam trẻ trung hơn Phật giáo miền Bắc và miền
Trung nếu đứng về góc độ lịch sử mà nói.


Ngày nay, riêng ở miền Nam, do xu thế hội nhập của thời đại và do sự
giao lưu văn hóa giữa các quốc gia nên có chùa kiến tạo theo phong cách
kiến trúc Phật giáo Đài Loan - Trung Quốc, có chùa đại trùng kiến theo
mô típ kiến trúc các nước Phật giáo Nam tông, và có chùa xây dựng mà
ngay cả các nhà kiến trúc chuyên môn, các chuyên gia văn hóa cũng không
hình dung nổi nó thuộc mô hình kiến trúc của xứ sở Phật giáo nào, vì
nó được xây dựng theo sự tưởng tượng của sư trụ trì của một ngôi già
lam nào đó.


Sự kiến tạo hay đại trùng tu chùa chiền ở miền Nam hiện nay nổi lên
như một phong trào ‘trăm hoa đua nở’ - với ý nghĩ dễ duôi: miễn có nơi
cho phật tử chiêm bái tu hành là được - nhiều hơn là ý thức bảo tồn và
phát huy các giá trị kiến trúc Phật giáo truyền thống của cha ông
chúng ta để lại, vốn đã được thử thách và tinh lọc qua hàng thế kỷ để
tạo ra vị trí xứng đáng trong lòng văn hóa dân tộc và thế đứng độc lập,
tự chủ trong xu hướng giao lưu văn hóa toàn cầu, mà nguyên nhân chính
của nó là vì thiếu kiến thức căn bản về kiến trúc tự viện truyền thống
của dân tộc trong một số tăng ni hiện đang giữ cương vị trụ trì.


Trở lại kiến trúc tự viện Hàn Quốc, chất liệu xây dựng chùa chiền ở
đây đều bằng gỗ và đá xám đen. Mái ngói màu nâu đen. Đà xà, rui mè, kèo
cột v.v … đều trang trí hoa văn sơn màu ngũ sắc theo mô típ văn hóa
Phật giáo Tây Tạng với màu xanh lá cây - biểu tượng của niềm tin, của
hạnh phúc, và của hòa bình - làm chủ đạo. Sàn nền các nội điện lót gỗ
thông. Sân chùa nền đất sét pha cát, không tráng bê tông hay lót gạch.
Các bậc thềm lên xuống lót đá tảng màu xám đen.




Mỗi tự viện ở Hàn Quốc thường có: Tam Quan hoành tráng, Đại Hùng
điện, Tam Thiên Phật điện, Địa Tạng điện, Quán Âm điện, Kim chung các,
Giảng đường, Tăng đường, nhà trù, và trước Đại Hùng điện giữa sân có
một tháp đá nhỏ cao 4-5 mét. Trong nội điện thường thờ bộ ba tôn tượng:
hoặc Di-đà, Quán Âm, Thế Chí, hoặc Thích Ca, Văn Thù, Phổ Hiền, hoặc
Tam Thế Phật. Phông nền phía sau bộ ba tôn tượng ấy, trên vách điện vẽ
cảnh sinh hoạt của chư Phật, chư Bồ-tát ở thế giới Cực Lạc.


Nhìn chung, kiến trúc tự viện Hàn Quốc là sự kết hợp hài hòa giữa
kiến trúc Phật giáo Trung Quốc và Tây Tạng, cùng với kiến trúc truyền
thống Hàn quốc, để từ đó tạo nên bản sắc kiến trúc Phật giáo đặc thù
của phật tử Hàn Quốc, vừa rực rỡ tráng lệ, vừa trang nghiêm cổ kính.
Nếu không có yếu tố văn hóa Phật giáo Tây Tạng chen lẫn trong các chùa
Hàn Quốc, thật khó mà phân biệt đâu là chùa Hàn Quốc đâu là chùa Nhật
Bản, bởi vì về hình thức kiến trúc tổng thể, chúng khá giống nhau.


Về sinh hoạt Phật giáo Hàn Quốc, ngày nay, hầu hết các tự viện đều có
tăng ni và phật tử tu tập theo pháp môn Thiền - Tịnh song tu và ăn
chay. Có vẻ như họ luôn có ý thức duy trì và bảo tồn các giá trị sinh
hoạt Phật giáo truyền thống, vốn là nền tảng vững bền của sự giải
thoát. Rất ít tăng ni có huynh hướng vượt rào, thoát ly các giá trị
truyền thống như lập gia đình, ăn mặn giống như Phật giáo Nhật Bản, mặc
dù dân trí Hàn Quốc khá cao, và kinh tế cũng rất phát triển, xếp hàng
thứ 10 trên thế giới, thu nhập bình quân đầu người mỗi năm tính theo
GDP khoảng trên 20.000 USD.


Phải chăng chính ý thức duy trì các giá trị truyền thống và đời sống
phạm hạnh nghiêm túc của tăng ni Hàn Quốc ấy đã tạo nên sự thuần thành,
sự tín tâm, sự cung kính tăng ni và ý thức tự giác tu tập cao trong
lòng phật tử Hàn Quốc như đã nói ở trên?
Trong khi đó, năm 2006, khi đến chiêm bái một số danh lam cổ tự Nhật
Bản, người viết tận mắt chứng kiến cảnh chùa to Phật lớn nhưng vắng
bóng tăng ni tu hành, và phần đông phật tử Nhật Bản đến chùa chỉ chắp
tay khấn vái theo phong tục, tập quán tổ tiên. Hơn thế nữa, tín tâm vào
tăng ni của phật tử Nhật Bản hiện nay dường như đã tan nát ở trong
lòng.


Có thể nói, Phật giáo Nhật Bản hiện nay, trên thực tế, chỉ còn là một
cái xác không hồn. Các cơ sở tự viện cổ kính hoành tráng của Nhật Bản
đã mất hẳn chức năng chính của nó: làm nơi quy hướng tâm linh cho tăng
tín đồ Phật giáo, thay vào đó là một chức năng mới: du lịch tâm linh.
Với những ai nặng lòng với Phật giáo, nếu có hành hương đến nơi tôn
nghiêm ấy cũng chỉ thấy dâng trào những cảm xúc hoài niệm kính tiếc dĩ
vãng thời hoàng kim của Phật giáo Nhật Bản mà thôi.



Hỏi ra mới biết rằng ngày nay ở Nhật Bản rất ít người xuất gia, và
nếu có xuất gia thì phần đông họ cũng lập gia đình, ăn mặn, sinh hoạt
như người thế tục. Đặc biệt,
nữ giới thì dường như không còn có ý niệm xuất gia đầu Phật trên xứ sở
mặt trời mọc này. Người ta có thể cho rằng, sở dĩ Phật giáo Nhật Bản
rơi vào bi kịch xót xa như thế là do văn minh khoa học của họ tiến bộ
vượt bậc nên niềm tin tôn giáo đã mất dần trong tâm thức người dân
Nhật. Xét cho cùng, nguyên nhân sâu xa của bi kịch này của Phật giáo
Nhật Bản ngày nay chính là phong trào canh tân Phật giáo Nhật Bản trong
suốt thế kỷ XX đã đẩy con tàu Phật giáo Nhật Bản đi trượt khỏi đường
ray Phật giáo truyền thống mà hậu quả nhãn tiền của nó là đã sinh ra
một đứa con dị dạng: “phái Tân Tăng”.


Quả thật, trên thực tế, người ta rất khó mà chấp nhận và tin tưởng
hình tướng của một vị hòa thượng ‘đầu tròn áo veston, có vợ và con’ hay
hình ảnh một tu sỹ biểu diễn thời trang Phật giáo trong quán bar. Cũng
như, người ta rất khó phát sinh niềm cung kính đối với một người được
mệnh danh là thiền sư nhưng lại mang hình tướng cư sỹ, cho dù người đó
có học vị, học hàm đến đâu đi chăng nữa. Bởi vì ít nhiều hình tướng nơi
những con người ấy có cái gì đó không chính danh, mà khi bên ngoài đã
không chính danh thì bên trong làm sao chính danh được? Thay vào đó,
người ta có thể vô tư chấp nhận những hình tướng ấy như là tấm gương
tiêu biểu của một cư sỹ phật tử chân chính, thuần thành vốn có thể tu
đạo và chứng đạo. Bởi vì tự thân hình tướng bên ngoài đó cũng đã có
phần chính danh dù thực hư bên trong của nó vẫn chưa thể biết có kiểm
chứng được hay không.


Với hình thức sinh hoạt nửa đời nửa đạo như thế, thử hỏi làm sao chùa
chiền ở Nhật Bản lại không vắng hẳn bóng những bậc chân tu đạo cao đức
trọng soi đường dẫn lối cho phật tử? làm sao sự tín tâm trong lòng quần
chúng phật tử không tan thành mây khói? và phải mất bao nhiêu lâu và
bao nhiêu thế hệ để người ta mới có thể vực dậy đức tin, ý thức tự giác
tu tập, và xây dựng ngôi chùa tâm linh vững chãi như thời vàng son đã
qua trong trái tim quần chúng phật tử Nhật Bản? Đáp án cho bài toán nan
giải này chính là “hồi đầu thị ngạn”. Hãy quay về bước theo vết chân
truyền thống mà chư Phật đã đi, chư Bồ-tát đã đi, chư Tổ sư đã đi và
bây giờ tất cả chúng ta cũng phải đi, - nếu muốn giải thoát.


Từ phi trường quốc tế Inchon, thủ đô Seoul, Hàn Quốc, chuyến bay OZ
731 của hãng hàng không Korean Air đưa phái đoàn môn phái Phật giáo
Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng trở về đến phi trường Tân Sơn Nhất lúc
0h05’, rạng sáng ngày 21/7/2008, kết thúc tốt đẹp chuyến hành hương
chiêm bái tự viện Hàn Quốc, bất chợt người viết nhận ra rằng, trong nửa
đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam cũng có các phong trào chấn hưng Phật giáo
khắp ba miền Nam, Trung, Bắc, được khởi xướng bởi quý hòa thượng: Trí
Hải, Tố Liên, Tịnh Khiết, và các cư sỹ: Minh Tâm Lê Đình Thám, Thiều
Chửu v.v.


Thế nhưng, khác với phong trào canh tân của Phật giáo Nhật Bản, mục
đích của các phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam khi ấy không hướng
đến làm thay đổi các giá trị Phật giáo truyền thống, mà là kế thừa,
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Phật giáo truyền thống vốn kết tinh
qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, để từ đó xuất sinh cả một thế hệ
cao tăng thạc đức, - như quý hòa thượng Minh Châu, Thanh Kiểm, Thiện
Siêu, Thanh Từ, Nhất Hạnh v.v… - làm tỏa sáng Phật giáo Việt Nam ngày
nay.


Phải chăng, đây chính là bài học kinh nghiệm quý báu cho tất cả chúng
ta tự nhìn lại để vững tin tiếp bước trên con đường Phật giáo truyền
thống của dân tộc vốn đã được tôi luyện và tinh lọc qua hai ngàn năm
lịch sử mà không cần phải băn khoăn và bận tâm trước những thay đổi và
thách thức của cuộc sống hôm nay?
Chùa Phúc Lâm, Biên Hòa ngày 24/7/2008
Thích Minh Trí