Đạo Phật là tôn
giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự
chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn
tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm
linh. Giới hạn tận cùng của các tôn giáo là một
đấng Sáng Tạo toàn năng. Đời sống tâm linh của
dân gian có phong phú đến mấy thì cuối cùng cũng
gặp Ông Trời là hết. Sự minh triết tôn giáo có
cao rộng đến mức nào thì gặp sự hiện hữu của
Thượng Đế cũng chỉ còn là sự mặc khải giao phó.
Khái niệm Không
Tánh tức Vô Ngã trong đạo Phật đã vượt qua mọi
hình thái rào cản, mọi ý niệm đóng khung, mọi
tên gọi giả tạm trong vòng khả năng quy ước của
con người. Khi không có một tự thể nào tự nó là
chính nó; là thường hằng, bất biến; là một cá
thể uyên nguyên sinh ra một đối thể khác thì vạn
vật không còn có tự tánh. Đó là một trạng thái
hoàn toàn tự do nhưng tuyệt đối cô đơn. Sự cô
đơn lung linh trong từng nháy mắt sinh diệt gặp
gỡ, tiếp cận, tương tác, dính mắc với nhau thành
“duyên” – Duyên khởi, rồi duyên hợp. Khi một
hợp duyên đã khởi và đủ điều kiện chín mùi thì
một đối tượng mới sinh ra.
“Em ơi! Nếu
chiều hôm đó Sài Gòn không có cơn mưa mùa Hè bất
chợt thì làm sao chúng mình gặp nhau khi cùng
trú mưa dưới một mái hiên bên hè phố. Nếu em
không hoảng hốt làm rớt cặp sách xuống vũng nước
để anh giúp em lượm lên và lấy áo sơ mi học trò
lau khô, nếu trận mưa không kéo dài đến chiều,
nếu xe đạp em không bị xì hơi cần anh mang vá
giúp… thì làm sao ngày nay chúng mình thành vợ
chồng?!” (Huyền Vũ. Mưa Sài Gòn, 1972).
Đoạn văn của Huyền Vũ đã minh họa cho “duyên”.
Mỗi chữ “nếu” là một duyên khởi và mỗi duyên
khởi hiển thị (việc thấy được) còn có vô số hợp
duyên tiềm ẩn đã cùng tác động lên nhau để tạo
thành một sự việc. Hai cô cậu học trò, cơn mưa
Sài Gòn, mái hiên hè phố, cặp sách học trò… là
những gì riêng lẻ, có một hình tướng tạm bợ và
một tên gọi giả tạm bỗng nhiên đan kết vào nhau
thành tình yêu, thành duyên chồng vợ. Và, nào ai
biết được đỉnh hạnh phúc sau cơn mưa có thể kéo
tới những bất hạnh, trái ngang dằng dặc trong
những năm tháng về sau vì Duyên chỉ là một ngọn
sóng trong đại dương mênh mông của Nghiệp.
Trong một thế
giới đầy biến hiện trùng trùng của Nghiệp và
Duyên sinh khởi như thế, một khoảnh khắc dừng
lại của suy nghĩ cũng không thể nào thật sự có
được. Trong cơn mưa có hàng muôn vàn hình tướng,
sự việc, ý nghĩ mất đi và hiện hữu quay cuồng
như chong chóng. Sau cơn mưa, một thế giới mới
bắt đầu. Sự bắt đầu, kết thúc và tái sinh có thể
còn nhanh hơn một phần nghìn của một cái nháy
mắt. Mọi sự dừng lại và “cho rằng”, thế nầy là
quả thật có hiện tướng như thế nầy; thế kia là
rõ mồn một như thế kia tức là không sống với
dòng tồn tục lưu truyền mà đang chết. Đang chết
là đang chấp vì chấp là níu cứng một điểm tựa mà
mình tự cho là đáng tin cậy trong dòng cuồng lưu
đang trôi chảy.
Hạnh phúc mà cũng
là bi kịch của kiếp người bắt đầu từ hình tướng.
Cảnh đẹp, lời hay, hoa thơm, vị ngọt, thân an, ý
sáng cũng chỉ là những thuộc tính chủ quan của
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Cảm thọ sướng khổ
cũng thông thông qua lục tặc hay lục linh đó mà
sinh khởi. Con nhím đực khen con nhím cái “em
có làn da mượt mà” cũng do cảm nhận chủ quan về
hình tướng “tương thân, tương thọ”! Cho nên,
đạo Phật là một cuộc hành trình của trí tuệ và
tâm linh để xác định Tánh Thật qua Hình Tướng.
Cuộc cách mạng trong tư tưởng Phật giáo là một
sự phủ nhận hình tướng để khỏi bị “chết chìm” vì
sự dính mắc trong hình tướng. Không tánh chẳng
phải là không có gì cả mà không phải là cái hình
tướng mà người ta quen dựa vào để thấy. Hình
tướng hiện ra “như vầy, như vầy” mà tánh thật
thì “không phải thế, không phải thế”. Phật dạy:
“Thông qua hình
tướng thấy ta,
Ấy thân tà đạo,
chẳng là Như Lai”.
Thấy được thật
tánh không phải là thông qua phương tiện định
hình, mô tả mà bằng sự trải nghiệm, tu chứng của
quán niệm, tuệ giác thiền định.
Đạo Phật đã trải
qua 25 thế kỷ và hàng ngàn thế hệ (nếu tính theo
thời gian sinh ra và trưởng thành của mỗi thế hệ
là 25 năm, một khoảng thời gian dài đủ cho quá
trình khởi đầu và có được căn bản nhận thức
tương đối độc lập). Nhưng từ trước đến sau, chỉ
có một con đường nhất quán: Phá chấp! Thế giới
Phật giáo có chủ thể và đối tượng hay Ngã và
Pháp. Chấp Ngã hay chấp Pháp đều là nuôi định
kiến “cho rằng…” đưa đến sự dính mắc mù quáng.
Đã có những thời
kỳ khuynh hướng chấp pháp cực đoan làm chủ. Đó
là những thời kỳ mà hình tướng lấn lướt thật
tánh: Chùa tháp tự viện mọc lên như một xu thế
trình diễn. Phật tử xuất gia cũng như tại gia
chuyên quyền thế tục như một đạo quân hành nghề
tôn giáo. Người nói pháp, giảng đạo nhiều hơn
người hành đạo. Quả vị của sự tu hành trong
những thời kỳ nầy không phải là năng lực hoằng
pháp độ sanh mà là một sự chạy đua về cơ sở vật
chất, về danh vị tôn xưng, về quyền lực sở đắc.
Giáo sử nhà Phật đã chứng minh rằng, đó là dấu
hiệu của những thời điểm mạt pháp khi phải trụ
vào giá trị hình tướng để làm điểm tựa cho thật
tánh tâm linh như ở Ấn Độ ngay sau triều đại
Asoka (304 – 232 BC); ở Trung Quốc cuối triều
đại Lương Vũ Đế (502 – 549); ở Việt Nam sau
triều đại nhà Trần (1225 – 1400). Đạo Phật bị
thế tục hóa với màu sắc lễ nhạc mang tính chất
trình diễn sân khấu. Trong những thời kỳ đó, lý
Phật Đà cao thâm ngã dần sang màu sắc phàm tục,
mê tín dị đoan. Tăng già không hòa hợp, chia
phe kết hội chuyên quyền, khích bác lẫn nhau.
Tứ chúng không đồng tu mà phân hóa thi đua “nói
đạo” thay vì hành đạo và vô hình trung biến
thành công cụ phục vụ chính trị, nương quyền cậy
thế phàm trần.
Theo những nhà
nghiên cứu lịch sử Phật giáo thế giới như Edward
Thomas, Rupert Gethin, Walpola Ruhula… thì thịnh
pháp và mạt pháp là những giai đoạn và thời điểm
hưng vong của Đạo Phật xen lẫn nhau trong mọi
thời kỳ; chứ không có một thời kỳ nào nhất định
gọi là “mạt pháp” theo tài liệu tam sao thất bổn
được ghi lại như một lối biện minh cho nguyên cớ
thoái trào và phân hóa Phật pháp trong những
thời kỳ… “y như mạt pháp tới nơi”!
Dấu hiệu của một
thời kỳ thịnh pháp không nhất thiết phản ánh qua
hình tướng chùa to, tượng lớn. Ngược lại, sự
xuất hiện rầm rộ của những những hình tướng vật
chất cũng chẳng phải là dấu chỉ của một đạo Phật
đang hưng thịnh. Từ đó, những nhà nghiên cứu
Phật học thường rất cẩn trọng và dè dặt khi cần
phải dùng những con số cân, đo, đong, đếm về cơ
sở vật chất, về tăng đoàn tu sĩ, về số lượng
tín đồ để đánh giá một thời kỳ phát triển văn
hóa Phật giáo.
Tuy nhiên, cũng
theo nhận định của những sử gia tôn giáo thì sự
xuất hiện của những công trình kiến trúc các
tượng đài, chùa tháp, tự viện Phật giáo đồ sộ,
mỹ thuật trên toàn thế giới từ giữa thế kỷ 20 và
đầu thế kỷ 21 không phải là dấu hiệu của một
thời kỳ mà đạo Phật trụ vào hình tướng. Nhưng
đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của khoa
học kỹ thuật tạo nhiều ưu thế cho việc xây dựng
nên những công trình kiến trúc độc đáo, tân kỳ
và đồ sộ là một “nhu cầu thời đại” mà tôn giáo
nói chung không thể là một đối tượng đứng ngoài.
Năm 1993, tượng
Phật A Di Đà cao nhất thế giới (Cao 120 mét.
Trước đó, tượng Nữ Thần Tự Do ở Mỹ được xem là
cao nhất thế giới cũng chỉ cao 93 mét) được xây
dựng ở một ngọn đồi thuộc vùng Ushiku cách
Tokyo, Nhật Bản chừng 100 dặm. Hòa thượng
Yoshiyuki giải thích về sự “vĩ đại” của bức
tượng nầy như sau: “Một
pho tượng dù có tạc bằng chất liệu quý hiếm đến
đâu hay có chiều kích vĩ đại đến mức độ nào cũng
không đáng để đem so sánh với sự cao cả thiêng
liêng và vĩ đại của đức Phật. Thực sự, tôn giáo
không tùy thuộc vào hình tướng bề ngoài để nói
lên sự tương hợp với khả năng hiểu đạo, hành đạo
và chứng nghiệm. Tuy nhiên, tôn giáo trong thời
hiện đại cũng có khuynh hướng coi trọng về hình
thức bên ngoài làm cửa phương tiện. Vì thế, mục
đích của chúng tôi là tạo nên một phương tiện
tương đối gây được ấn tượng sâu đậm về sự quý
báu trong lời dạy của đức Phật và khối lượng
khổng lồ của giáo pháp, kinh điển nhà Phật”.
Cuối tháng 7 năm
2010, đại chúng và Phật tử Việt Nam có dịp quan
chiêm tượng đức Quán Thế Âm tại chùa Linh Ứng,
Bãi Bụt, trên vùng núi Sơn Trà, thành phố Đà
Nẵng. Đây là một tôn tượng Phật giáo cao nhất
Việt Nam hiện nay – 67 mét. Nhưng tầm cỡ đồ sộ
của hình tướng vật thể trong tôn giáo cũng chỉ ở
vị trí rất khiêm tốn như Thầy Thích Tâm Ân đã so
sánh: “Sẽ
không có hình tượng vật thể nào có thể so sánh
được với chiều cao, với bề rộng của đức tin và
sự huyền nhiệm của tâm linh. Nếu rằng, từ mỗi
đầu chân lông của kim thân đức Phật có muôn ức
đạo hào quang và trên mỗi chấm hào quang có hằng
ha sa số chư Phật thì biết lấy gì so sánh. Vì
thế, trên đường hành đạo độ sanh của người học
Phật và hiểu Phật thì tất cả chỉ là biểu tượng
tương đối và tạm thời làm cửa phương tiện để đi
vào đạo Phật. Dính mắc vào hình tướng tượng đài
là biến phương tiện làm cứu cánh”.
Một hiện tượng
thuộc về công trình khắc chạm, kiến trúc tượng
đài của Phật giáo có tầm cỡ quốc tế đã xuất hiện
gần đây và đang được cung nghinh luân lưu khắp
thế giới là tượng Phật Ngọc. Một danh sư Tây
Tạng, Lama Zopa Rinpoche, đã đặt tên cho tượng
Phật
Bích Ngọc là Phật Ngọc cho Hòa Bình Thế Giới
(Jade Buddha for Universal Peace). Lịch sử vắn
tắt về tượng Phật Ngọc như sau:
Năm 2000, tại
Canada người ta khám phá một khối ngọc bích toàn
vẹn nặng 18 tấn rất hiếm có. Năm 2003, ông Ian
Green, một Phật tử người Úc đã mua khối ngọc và
mang qua Thái Lan hợp đồng với công ty điêu khắc
đá quý Jade Thongtavee để khắc chạm khối ngọc
bích thành tượng Phật. Sau 5 năm sưu tầm, nghiên
cứu và thi công, tượng Phật Ngọc được hoàn thành
vào tháng Chạp năm 2008. Tôn tượng cao 2 mét 50,
nặng trên 4 tấn và lượng giá 5 triệu đô la Mỹ.
Tượng Phật Ngọc
khởi đầu trưng bày trước công chúng tại chùa
Quán Thế Âm, Đà Nẵng vào tháng 3 năm 2009 và
luân lưu trưng bày tại 5 chùa khác từ Bắc chí
Nam trong vòng 2 tháng, trước khi được lưu thỉnh
sang Úc. Tại Úc, tượng Phật Ngọc được lưu thỉnh
tới 11 tự viện và trong số đó đã có 6 chùa Việt
Nam tại Úc tự nguyện đứng ra tổ chức trưng bày. Tượng
Phật Ngọc tiếp tục được lưu thỉnh sang Canada và
Hoa Kỳ từ tháng 2 năm 2010 cho tới tháng 5 năm
2011. Theo dự kiến, tượng sẽ được tiếp tục cung
thỉnh sang châu Âu, rồi trở lại châu Á năm 2012
trước khi nhập Đại Bảo tháp Từ Bi Độ Thế (Great
Stupa of Universal Compassion) tại thành phố
Bendigo, nước Úc.
Dẫu
nhìn qua lăng kính nào đi nữa thì sự ra đời của
Phật Ngọc là một duyên lành. Đó vừa là một tín
hiệu, một thông điệp và cũng là một biểu tượng
của Hòa Bình, An Lạc không màu sắc chính trị,
không biên giới Đông Tây. Đồng thời đây cũng là
“phương tiện môn” giúp mọi cá nhân và sắc dân
Âu, Á, Úc, Mỹ, Phi có cơ hội hiểu nhau và tiến
gần nhau hơn.
Sau gần một năm
rưỡi được lưu thỉnh và trưng bày trên gần ba
chục địa điểm từ Á tới Úc rồi sang Mỹ châu,
tượng Phật Ngọc đã thu hút được gần 4 triệu rưỡi
người đủ mọi sắc dân và tôn giáo trên thế giới
đến quan chiêm, nhưng đa số là người Việt Nam cả
trong và ngoài nước. Đồng thời, cũng có nhiều
cảm tưởng từ nhiều nhánh, nhiều dòng chung quanh
việc trưng bày Phật Ngọc.
Phía thuận dòng
thì hết lời ca ngợi. Có lúc xem Phật Ngọc như là
hiện thân của đức Phật tái thế với năng lực
nhiệm mầu, với hoa Mạn Đà La xuất hiện như hoa
đăng. Phía ngược lại thì cho rằng, sự tôn sùng
và ca ngợi quá đà đã tạo ra một không khí sùng
bái gần như mê tín dị đoan quanh Phật Ngọc. Bản
chất và tác dụng của mê tín trong thời đại kinh
tế thị trường là sự lẫn lộn giữa giá trị tâm
linh thuần khiết và vật chất đối tác kinh doanh. Trong
khi “Phật tại tâm” nên dẫu Phật ngọc, Phật vàng,
Phật đồng, Phật gỗ, Phật đất… cũng chỉ là phương
tiện hình tướng như nhau; miễn sao giúp người
khai thị được Phật tánh trong chính mình.
Nhưng
đa số khách đến viếng tương Phật Ngọc là những
người đến quan chiêm hay chiêm bái thầm lặng. Họ
không phát biểu gì cả nhưng lòng họ đã nói rất
nhiều qua cảm ứng “đàm tâm” mà tự trong sâu thẳm
lòng mình, ai cũng có.
Đức Phật đã nhìn
mọi sự trong vũ trụ và thế gian đều là Pháp:
Pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Pháp xuất
thế gian nhìn qua tuệ giác của các bậc chứng ngộ
là cái nhìn thấu suốt Thật Tánh, nhất nguyên:
mỗi hạt bụi đều có chứa tam thiên đại thiên thế
giới và ngược lại, nên mọi hình tướng cũng chỉ
là ảo ảnh như hoa đốm giữa hư không. Pháp thế
gian thì nhìn qua hình tướng nên chấp ta chấp
người, chấp không chấp có. Đức Phật nhìn thấu
suốt bản chất thế gian nên đã đưa ra tám vạn bốn
ngàn pháp môn và hằng hà sa số phương tiện để
đối trị. Bởi vậy, nhìn đạo Phật qua pháp thế
gian thì Phật giáo vừa duy tâm, duy linh, duy
thần mà cũng vừa là duy vật vô thần. Câu hỏi
đầu tiên khi thế giới phương Tây nhìn về Phật
giáo là: “Phật lý là một tôn giáo hay một triết
lý”? Câu trả lời quá rõ ràng, rằng là, Phật Đà
vừa là một tôn giáo, vừa là một hệ thống triết
lý. Khi nói đến ba đời, mười phương Phật thì
Phật Đà là một tôn giáo. Khi nói đến Phật Tánh
có sẵn trong mỗi chúng sanh và vạn pháp thì Phật
Đà là một hệ thống triết lý.
Nhưng
tại sao
lại phải nói gì gì những chuyện cao xa trong khi
cuộc sống trước mắt đang tìm cầu an lạc. Sự an
lạc không nằm trong chữ nghĩa xa vời mà đang nằm
lặng lẽ khắp nơi và chính trong ta. Nếu tượng
Phật Ngọc mang đến hòa bình an lạc thì bởi vì đó
là một tín hiệu tỏa chiếu năng lượng lành. Một
hình tượng nhắc nhở cho người tiếp cận gắng quay
về với thế giới hoà bình và suối nguồn an lạc có
sẵn trong mỗi người.
Có chăng sự mầu
nhiệm và linh thiêng của Phật Ngọc như một phép
lạ? Đạo Phật phủ nhận phép lạ như một sự cứu
rỗi, bởi vì thần thông, phép lạ đều không giải
trừ được Nghiệp mà chỉ cần có cái tâm buông dao
là có khả năng thành Phật. Sẽ không có một tiêu
chuẩn nào để xác định hay đánh giá mức độ linh
hiển của hình tướng mà “linh tại ngã, bất linh
tại ngã”. Mỗi người có một ngọn đuốc riêng để
tự thắp sáng mà nhìn. Khi ngọn đuốc đó cháy
sáng trong tâm sẽ thành tâm tuệ. Tâm tuệ cảm
ứng Phật Ngọc bằng trực giác, không lời.
***
Từ đầu năm 2010,
tượng Phật Ngọc đã từ Úc sang Mỹ, Canada. Các
chùa viện, Phật tử Việt Nam tại Mỹ đã luân lưu
cung thỉnh tượng Phật Ngọc vòng quanh các thành
phố có đông người Việt. Mùa Vu Lan năm nay,
tượng Phật Ngọc đang trên đường đến vùng Bắc
California. Hai địa điểm chính tổ chức lễ cung
nghinh và trưng bày tượng Phật Ngọc cho đại
chúng và Phật tử đến viếng ở quanh vùng là:
- Từ 17 đến 29
tháng 9 năm 2010: Tịnh Xá Ngọc Hoa. 766 S.
Second Street. San Jose, CA 95112. Điện thoại:
408-295-2436.
- Từ 02 đến 17
tháng 10 năm 2010: Chùa Kim Quang. 3119 Alta
Expressway. Sacramento, CA 95825. Điện thoại:
916-481-8781.