Kiến trúc tôn giáo bao gồm sự dung hợp
của luận lý tôn giáo và văn hóa dân tộc tạo nên một phong cách thống
nhất, tập hợp những kỷ thuật kiến trúc và mỹ thuật tạo hình kết tinh
thành tập đại thành của nền kiến trúc nghệ thuật tôn giáo và là điểm
nhấn sáng chói trong nghệ thuật kiến trúc nhân loại.
Nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo Trung
Quốc thừa hưởng nền kiến trúc vĩ đại của nghệ thuật kiến trúc cổ đại
Trung Quốc. Từ nền tảng này Phật Giáo kế thừa và sáng tạo, tạo nên một
phong cách kiến trúc đặc biệt và mê ly của riêng mình. Kiến trúc Phật
Giáo Trung Quốc được đề cao và có một vị trí đặc biệt trong nền kiến
trúc nghệ thuật cổ đại nhân loại và sự phát triển tôn giáo.
Kiến trúc cổ đại Trung Quốc được hình
thành có hệ thống, bắt nguồn từ thời đại nhà Hán, thời kỳ này xã hội
phong kiến Trung Quốc về chính trị, văn hóa, kinh tế đã đạt đỉnh cao.
Đương thời kiến trúc được coi như sự thể hiện uy quyền của Thiên tử, là
công cụ thống trị tinh thần của chế độ phong kiến, do lồng ghép thể chế
của Nho gia và văn hóa tôn giáo trong nghệ thuật kiến trúc. Các đế vương
lợi dụng bối cảnh văn hóa tôn giáo của nền kiến trúc này để hổ trợ cho
việc cai trị của mình, cho nên đẩy mạnh và phát triển các kỷ năng nghệ
thuật kiến trúc.
Phật Giáo thời kỳ này đã có mặt ở Trung
Quốc và được vua chúa sùng phụng. Vua quan nhà Hán một mặt ra sức xây
dựng chùa chiền cử hành những hoạt động tôn giáo. Từ ngôi chùa đầu tiên
của Phật Giáo được hình thành bao gồm Phật điện, Phật tháp, Kinh tràng,
thạch quật. kiến trúc Phật Giáo Trung Quốc đã trở thành một trong những
nội dung chính của nền kiến trúc cổ đại Trung Quốc, được sùng phụng và
hộ trì của các bậc đế vương cho nên nền kiến trúc này có giá trị đặc
biệt và trọng yếu trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kiến trúc cổ
đại Trung Quốc.
Kiến trúc Phật Giáo Trung Quốc so với
kiến trúc cung điện về qui mô thì không bằng, nhưng về nghệ thuật thì
trội hơn rất nhiều so với kiến trúc cung điện. Nếu so về số lượng, vật
liệu xây dựng hình dáng kiến trúc cũng có thể sánh ngang bằng với kiến
trúc cung điện. Nếu nói về nội hàm văn hóa và chiều sâu nghệ thuật giá
trị thẩm mỹ thì hơn hẳn kiến trúc cung đình.
Kiến trúc cổ đại Trung Quốc lấy kết cấu
gỗ làm phương thức kết cấu chính, ngoài ra dùng phương thức giá đỡ để
làm kết cấu phần đầu cột cũng như phần chịu lực của phần dang rộng mái.
Ngoài ra giá đỡ còn mang tính văng trang trí cho kiến trúc cũng như sự
khéo léo của nghệ thuật sắp xếp kiến trúc. Kết cấu giá đỡ được dùng
trong kiến trúc cổ đại Trung Quốc đến đời Hán thì việc sử dụng kết cấu
này trong kiến trúc quan trọng của quốc gia đã được thể chế hóa.
Có chế độ và đẳng cấp nghiêm ngặt, việc
sử dụng kết cấu giá đỡ trong kiến trúc rất hạn chế, duy chỉ có cung
điện, tự viện và các kiến trúc cao cấp khác của nhà nước mới được cho
phép sử dụng kết cấu này. Ở chỗ này kiến trúc Phật Giáo và kiến trúc
cung điện hưởng chung một thể chế đặc thù, cho nên kiến trúc Phật Giáo
sử dụng kết cấu giá đỡ trong phạm vi rất rộng, số lượng rất nhiều về
kiểu dáng và chất liệu làm cho người thời đó phải tán thán.
Phật tự Trung Quốc được xây dựng thịnh
hành, Phật Giáo Trung Quốc bắt đầu phát triển mạnh, có thể nói là từ
thời Nam Bắc triều cho đến Tùy Đường. Bất luận từ đô thành cho đến làng
xóm, đâu đâu cũng đều có chùa chiền do quốc gia xây cất hoặc là chính
quyền địa phương xây dựng, tập trung nhân lực tài lực xây dựng chùa
chiền tháp miếu điêu khắc Phật động. Đương thời thủ đô Nam triều là Kiến
Khang có hơn 500 ngôi chùa. Thời Bắc Ngụy thủ đô Lạc Dương có hơn 1367
ngôi chùa. Đến đời Tùy chùa chiền đã đạt đến 1434 ngôi, chiếm diện tích
60% của kinh đô nhà Tùy.
Đời nhà Đường vào thời kỳ hoàng kim của
Phật Giáo có 45000 ngôi chùa. Cho đến đầu đời nhà Thanh chùa chiền đã
đạt tới ngưỡng 80.000 ngôi. Trong đó những ngôi chùa nổi tiếng và được
bảo tồn còn tương đối tốt cũng hơn 1000 ngôi. Ngũ Đài Sơn, Nga My Sơn,
Phổ Đà Sơn, Cửu Hoa Sơn cùng với Đôn Hoàng, Mai Tích Sơn, Vân Cương,
Thiên Long Sơn, Long Môn.v.v…
Đều là những chỗ tập trung điện đài tháp
miếu cũng như Phật động nhiều nhất của Phật Giáo Trung Quốc. Sự hiện
hữu của Phật tự Trung Quốc có thể nói Đông từ Thượng Hải, Tây đến Tân
Cương, Bắc từ Hắc Long Giang, Nam đến Quảng Đông Nam Hải, nơi đâu cũng
có dấu tích của Phật Giáo, có một lượng vật thể kiến trúc vô cùng phong
phú, đứng nhất trong nền kiến trúc cổ đại Trung Quốc.
Nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo Trung
Quốc thuộc về không gian tạo hình nghệ thuật, từ thuộc tính tôn giáo,
nhu cầu xây dựng kiến trúc và bố cục kiến trúc cần phải tuyển trạch cục
đất để phù hợp với tổ hợp và quần thể kiến trúc phục vụ tôn giáo, nội bộ
không gian của kiến trúc cùng với hoa văn trang trí cũng như các đề tài
điêu khắc và sử lý ánh sáng màu sắc không gian dựa trên ý niệm, tâm lý
cảm ứng của người học Phật đối với sự truy cầu ý thức cảnh giới của chư
Phật.
Cho nên thông qua các thủ pháp nghệ
thuật tạo nên một không khí linh thiêng thần bí và thanh khiết của Đạo
Phật, dùng cảm giác tinh thần mạnh nhất và thẩm thấu lực cao nhất để
giáo hóa người học Phật, đây chính là sự vận dụng tổng hợp thủ pháp tạo
hình nghệ thuật biểu hiện công năng của tôn giáo trong kiến trúc của
Phật Giáo.
Bắt đầu từ thời Nam Bắc triều kiến trúc
Phật Giáo Trung Quốc đã dùng đến điêu khắc, hội họa, thư pháp cùng với
khắc bia kết hợp với kiến trúc tạo thành một tổ hợp kiến trúc nghệ
thuật, bắt đầu các công trình đào các động đá để thờ Phật, sáng tạo nên
một kiểu kiến trúc mới, tổng hợp hết các thành tố nghệ thuật đã nêu
trên, từ đó về sau lối kiến trúc này có ảnh hưởng sâu rộng và hầu hết
trong các công trình kiến trúc Phật Giáo cổ đại cũng như trong hiện đại.
Do đó Phật tự, Phật tháp, Kinh tràng, Thạch quật.v.v…
Từ kết cấu cho đến trang trí, lớn cho
đến cả ngôi tự viện, nhỏ cho đến những chỗ trang trí vi tế nhất đều dùng
cơ chế tạo hình nghệ thuật, do đó kiến trúc cung điện được làm giàu
thêm bởi những biểu hiện của hình thức và nội hàm văn hóa kiến trúc Phật
Giáo, thêm những ý niệm về cảm thụ mỹ học.
Đi ngang qua lịch sử cổ đại Trung Quốc,
những thành tựu của kiến trúc nghệ thuật Trung Quốc không thể không nói
đến nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo Trung Quốc. Cho đến ngày hôm nay
những kiến trúc gỗ còn tồn tại lâu nhất và sớm nhất, những hoa văn họa
tiết, các tác phẩm tượng Phật và Bồ tát, Thiên Long Bát Bộ Thần
chúng.v.v…các tác phẩm bích họa, khắc đá đều là những tác phẩm hy hữu
truyền thế quốc bảo của nền nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo Trung Quốc
nói riêng và nền nghệ thuật kiến trúc văn hóa nói chung, cũng là một
hiện tượng hiếm thấy của một trong những nền kiến trúc cổ đại thế giới.
Kiến trúc nghệ thuật Phật Giáo Trung
Quốc hình thành vị trí đặc thù trong nền kiến trúc cổ đại Trung Quốc,
không phải là việc ngẫu nhiên. Các triều đại đế vương sùng kính Phật
Giáo, dùng lực lượng tài vật của quốc gia xây dựng các công trình kiến
trúc Phật Giáo, nguyên nhân này khởi nguồn từ chỗ Phật Giáo và chính trị
có sự liên kết chặt chẽ với nhau.
Giáo nghĩa nhân quả báo ứng, lý luận
sanh tử luân hồi của Phật Giáo và lấy sự cứu khổ cứu nạn, phổ độ chúng
sanh, lợi người tức là lợi mình để giáo hóa chúng sanh, dung hợp triết
học cổ đại Trung Quốc, làm cho chẳng những thượng tầng xã hội có thể
tiếp thu được Phật Giáo, mà tầng lớp cùng khổ có địa vị thấp nhất trong
xã hội cũng có thể thấm nhuần giáo nghĩa này.
Chính giáo nghĩa này đã làm cho Phật
Giáo lưu truyền và phát triển rộng rãi trong các tầng lớp xã hội Trung
Quốc, đối với chế độ phong kiến quan lại giáo nghĩa này có tính an định
xã hội và tạo sự cần thiết cho một trật tự xã hội mà ý tưởng thống trị
luôn luôn quan tâm và tìm cách điều phối, có lợi đối với lợi ích chính
trị, cho nên được nhà nước bảo hộ.
Vì thế không gian hoạt động tôn giáo của
Phật Giáo mở rộng, những thể loại kiến trúc cao quí nhất của kiến trúc
cung đình Trung Quốc được Phật Giáo sử dụng, hết thảy những hoa văn họa
tiết cũng như vật liệu, kết cấu của kiến trúc cung đình như kết cấu giá
đỡ, ngói lưu ly, si vĩ, tích thú, lưu kim, đúc đồng, trát ngọc và hội
họa điêu khắc, thư pháp, các thủ pháp nghệ thuật khác, thậm chí những
nơi nhỏ nhất của kết cấu kiến trúc cũng đều dùng tâm sử lý bằng những
thủ thuật nghệ thuật hết sức tinh vi.
Các đế vương thời xưa khâm định chức vụ
trụ trì các ngôi quốc tự cho các vị Tăng, sắc tứ tên chùa, biển cũng như
đề thơ tán tụng, việc làm này là một động lực rất lớn dần khởi sự phát
triển thuần thục nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo. Trãi qua năm tháng của
lịch sử, theo sự hoằng dương và phát triển của Phật Giáo, người xưa đã
sáng tạo nên nền nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo đặc sắc, độc đáo cho đến
bây giờ khi chúng ta đứng nhìn lại không khỏi không thán phục tài nghệ
của người xưa và ghi nhớ công đức của liệt vị Tổ sư đã dày công xây
dựng. (còn tiếp)
nên nền
nghệ thuật kiến trúc Phật Giáo đặc sắc, độc đáo cho đến bây giờ khi
chúng ta đứng nhìn lại không khỏi không thán phục tài nghệ của người xưa
và ghi nhớ công đức của liệt vị Tổ sư đã dày công xây dựng. (còn tiếp)




Long Môn Thạch Quật - Lạc Dương

Cổng Đá- Phổ Đà Sơn

Bia Đá-Chùa Hưng Giáo-Tây An


Đôn Đá - Di Hòa Viên- Bắc Kinh


Chùa Đồng-Di Hòa Viên-Bắc Kinh

Chuông Chùa Đại Chung-Bắc Kinh


Giá Đỡ Gỗ



Huyền Trang Kỷ Niệm Đường- Tây An

Thạch Tràng