Giờ          đây Cụ hãy lập tâm thành kính lắng nghe Giáo 
Pháp. Trong          khi Sư giảng, Cụ hãy chăm chú lắng nghe những lời 
của Sư          cũng giống như chính Ðức Phật đang ngồi trước mặt. Hãy  
        nhắm mắt lại và giữ thân thoải mái, lắng tâm an trụ          vào
 một điểm. Ðể tỏ lòng tôn sùng kỉnh mộ bậc Toàn          Giác Cụ hãy từ 
tốn để cho trí tuệ, chân lý và trạng          thái thanh khiết của Tam 
Bảo đi thẳng vào và an định          trong tâm Cụ.
Hôm nay Sư không mang đến          biếu Cụ quà tặng vật chất nào, chỉ
 có Giáo Pháp, những          lời dạy của Ðức Phật. Hãy chăm chú lắng 
nghe. Cụ nên          nhận thức rằng dù chính Ðức Phật đi nữa -- với kho
 tàng          đức hạnh vĩ đại mà Ngài đã tích trữ từ vô lượng kiếp     
     -- vẫn không thể tránh khỏi cái chết của cơ thể vật chất.          
Khi tuổi già đến, Ngài không bám níu vào thân mà buông bỏ,          đặt 
xuống gánh nặng. Giờ đây Cụ cũng vậy, cũng phải          học bài học 
thỏa mãn với bao nhiêu năm tháng đã trải          qua tùy thuộc vào tấm 
thân nầy. Cụ nên cảm nghe rằng bao          nhiêu đó đã đủ rồi.
Cụ có thể so sánh          thân nầy với những món đồ dùng trong nhà 
mà Cụ đã mua          sắm từ lâu -- những cái tách, cái dĩa, cái tô, cái
 bát          v.v... Khi mới mua về thì nó sạch sẽ bóng ngời. Nhưng đến 
         nay, sau một thời gian lâu dài bị xử dụng nó đã bắt đầu        
  hư cũ. Một mớ đã bể, mớ khác bị thất lạc, mất đi,          và những 
món còn lại thì đang dần dần hư hoại, nó          không có một hình thể 
ổn định thường còn, và bản chất          thiên nhiên của nó là vậy. Cơ 
thể của Cụ cũng dường          thế ấy -- luôn luôn chuyển biến ngay từ 
lúc được sanh vào          đời và xuyên qua thời niên thiếu rồi tráng 
niên, chí đến          ngày nay mà Cụ đã già, nó vẫn liên tục biến đổi. 
Cụ          phải chấp nhận điều nầy. Ðức Phật dạy rằng các vật          
hữu lậu [*], dầu thuộc về cơ thể vật chất, hiện hữu          do những 
điều kiện ở bên trong tạo duyên, hay dầu ở          bên ngoài, do những 
điều kiện bên ngoài tạo duyên, đều          là vô ngã. Bản chất thiên 
nhiên của nó là luôn luôn biến          đổi. Hãy quán tưởng chân lý nầy 
cho đến khi Cụ nhìn thấy          rõ ràng như vậy.
[*] Vật hữu lậu,            "sankhàra", hành, vật được cấu tạo, hay 
vật tùy            thế, là những sự vật chỉ hiện hữu do những gì khác   
         tạo duyên. Trong thực tế, đó là tất cả mọi sự vật            
trong thế gian hiện tượng nầy. Vạn pháp do duyên sanh.
  
Chính cái khối thịt          đang suy tàn nằm ở đây là chánh pháp (saccadhamma),
          là chân lý. Chân lý của cơ thể nầy là chánh pháp, và đó       
   là giáo huấn bất di dịch của Ðức Bổn Sư. Ðức Phật dạy          ta hãy
 nhìn vào thân nầy, hãy quán chiếu và suy niệm cho đến          khi thấu
 triệt bản chất thật sự của nó. Chúng ta phải          có thể sống an 
lạc với thân nầy, dầu nó ở trong trạng          thái nào. Ðức Phật dạy 
chúng ta phải tự đảm bảo rằng          chỉ có cơ thể vật chất bị nhốt 
trong tù, và không để          cái tâm cũng bị cảnh lao tù chung với nó.
 Giờ đây thân          thể bắt đầu suy tàn và hư hoại với thời gian. 
Không          nên cưỡng lại, nhưng cũng không nên để cho cái tâm cũng  
        suy tàn với nó. Hãy tách rời, giữ tâm riêng ra. Hãy tăng        
  cường tâm lực bằng cách nhận thức thực tướng của sự          vật. Ðức 
Thế Tôn dạy rằng đó là bản chất thiên          nhiên của thân, không thể
 có cách nào khác: đã được          sanh ra tức nhiên phải đi dần đến 
tuổi già, bệnh hoạn          và chết. Ðây là chân lý vĩnh cửu mà Cụ đang
 chứng nghiệm          trong giờ phút hiện tiền. Cụ hãy nhìn lại thân 
mình với          trí tuệ và nhận thức chân lý nầy.
Nếu cái nhà của Cụ          bị trận lụt cuốn trôi đi, hoặc bị hỏa 
hoạn thiêu đốt          tàn rụi, dầu hiểm họa lụt lội hay hỏa hoạn nào 
đe dọa,          hãy để cho cái nhà lo lắng. Những hiểm họa ấy chỉ      
    liên quan đến cái nhà. Nếu có lụt lội, chớ nên để cho          nó 
tràn ngập và lôi cuốn tâm. Nếu có hỏa hoạn, chớ          nên để cho nó 
thiêu đốt tâm. Cái nhà là vật ở bên          ngoài, Cụ hãy để cho nó bị 
lôi cuốn theo dòng nước lụt,          hay cháy thành tro trong trận hỏa 
hoạn. Hãy để cho tâm          buông bỏ, không bám níu vào ngôi nhà. Thời
 gian đã chín          mùi.
Cụ đã sống trong một          thời gian khá lâu dài. Mắt Cụ đã thấy 
nhiều hình thể          và màu sắc, tai Cụ đã nghe nhiều âm thanh, Cụ đã
 có bao          nhiêu kinh nghiệm. Và tất cả chỉ là thế -- chỉ là kinh 
         nghiệm. Cụ đã ăn nhiều thức ăn ngon, và những vị ngọt          
bùi ấy chỉ là vị ngọt bùi. Không có gì hơn nữa. Những          vị đắng 
cay cũng chỉ là những vị đắng cay. Chỉ thế          thôi. Nếu mắt Cụ 
nhìn thấy những hình sắc đẹp đẽ thì          nó cũng chỉ là những hình 
sắc đẹp đẽ. Tất cả chỉ có          thế. Một hình thể xấu xí cũng vậy. 
Chỉ là hình thể xấu          xí. Tai nghe những điệu hát mê ly êm dịu và
 nó cũng chỉ          có thế, không có gì hơn. Một âm thanh chát chúa ồn
 tai cũng          chỉ giản dị là vậy.
Ðức Phật dạy rằng          giàu hay nghèo, trẻ hay già, người hay 
thú, không có chúng          sanh nào trên thế gian nầy có thể giữ mình 
nguyên vẹn          trong bất cứ trạng thái nào trong một thời gian lâu 
dài. Tất          cả đều phải đổi thay và trở thành một cái gì khác.    
      Ðó là thực tại của đời sống mà ta không thể làm thế          nào 
để cứu vãn. Tuy nhiên, Ðức Phật dạy rằng điều mà          ta có thể làm 
được là tự quán chiếu thân để nhìn thấy          đặc tướng vô ngã của 
nó, để nhận thức rằng cả hai,          thân và tâm, không có cái nào là 
"Ta" hay "Của          Ta". Nó chỉ hiện hữu một cách tạm thời. Cũng như 
cái          nhà nầy, nó chỉ là của Cụ trên danh nghĩa. Cụ không thể    
      đem nó đi nơi nào với Cụ được. Cùng thế ấy, tài sản          sự 
nghiệp, thân bằng quyến thuộc của Cụ, tất cả đều          chỉ là của Cụ 
trên danh nghĩa, trong lời nói, chớ không          thật sự thuộc về Cụ. 
Nó thuộc về thiên nhiên. Chân lý          nầy không áp dụng riêng cho 
đơn độc một mình Cụ. Tất          cả mọi người đều cùng chung một số 
phận, chí đến Ðức          Thế Tôn và các Thánh Ðệ Tử của Ngài cũng vậy.
 Có khác          chăng là các vị ấy chấp nhận rằng đó là bản chất      
    thiên nhiên của sự vật; các Ngài thấy rằng đường lối          thiên 
nhiên của sự vật là vậy. Không có cách nào khác.
Do đó Ðức Phật dạy          ta tự quán chiếu và tỉ mỉ khảo sát thân 
nầy từ lòng          bàn chân lên đến đỉnh đầu, và từ đỉnh đầu xuống    
      trở lại lòng bàn chân. Hãy thử nhìn. Cụ thấy những gì?          Có
 cái chi tự nó là tinh khiết không? Toàn thể thân nầy vững          vàng
 tiến dần đến tan rã, và Ðức Phật dạy ta thấy rằng          nó không 
thuộc về của ta. Lẽ dĩ nhiên, cơ thể nầy phải          là vậy, bởi vì 
tất cả những hiện tượng hữu lậu đều          có tánh cách phải chuyển 
biến, đổi thay. Ta có thể làm          gì khác hơn được? Ðúng thật ra, 
bản chất của thân là          vậy thì không có gì là sai. Không phải 
thân làm cho ta đau          khổ. Khi Cụ nhìn điều phải một cách sai lầm
 thì đương          nhiên Cụ phải nhầm lẫn.
Cũng như nước trong dòng          sông, tự nhiên trôi chảy từ cao 
xuống thấp, không bao giờ          từ thấp chảy lên cao. Ðó là đặc tánh 
thiên nhiên của          nó. Nếu người kia đứng trên bờ sông nhìn thấy 
nước chảy          từ trên cao xuống lại điên cuồng ước muốn rằng nước  
        phải chảy ngược trở lên dốc cao thì lẽ dĩ nhiên, người          
ấy phải thất vọng, đau khổ. Dầu ông ta có làm gì đi nữa,          đường 
lối suy tư sai lầm của ông cũng không để cho tâm          trí ông được 
yên ổn, an lạc, thanh bình. Ông bất toại          nguyện vì quan kiến 
của ông sai lầm, và ông suy tư ngược          dòng. Nếu có quan kiến 
chân chánh, ông sẽ thấy rằng nước          tự nhiên phải chảy từ trên 
cao xuống thấp, và chí đến          khi nhận thức rõ ràng và chấp nhận 
thực trạng nầy, người          ấy vẫn còn rối loạn và buồn phiền.
Dòng nước của con sông          phải trôi chảy từ trên dốc cao xuống 
thấp, cũng giống          như cơ thể của Cụ. Ðã có một thời là trẻ 
trung. Cụ          trở thành già nua, và hiện đang quanh co hướng về cái
 chết.          Chớ nên ước muốn nó phải như thế nào khác. Ðó không     
     phải là điều gì mà Cụ có khả năng hay quyền lực cứu          chữa. 
Ðức Phật dạy ta nên sáng suốt nhận thấy đường          lối của sự vật 
rồi buông xả, không bám níu vào nó. Cụ          nên lấy cảm nghĩ buông 
bỏ ấy làm nơi nương tựa.
Hãy tiếp tục hành thiền,          dầu Cụ có cảm nghe mệt mỏi và kiệt 
sức. Hãy để tâm          an trụ vào hơi thở. Thở vài hơi dài rồi cột giữ
 tâm          vào đó. Khi thở vô, niệm thầm, "Bud", thở ra, niệm        
  thầm, "Dho" [*]. Hãy tập có thói quen thực hành như          vậy. Cụ 
càng cảm nghe kiệt lực thì càng nên cố gắng          chú tâm vi tế hơn, 
nhờ đó có thể đáp ứng thích nghi          tình trạng đau khổ đang phát 
triển. Khi vừa bắt đầu          nghe mệt Cụ hãy ngưng hết mọi suy tư và 
gom tâm vững chắc          hiểu biết hơi thở. Luôn luôn niệm thầm 
"Bud-Dho,          Bud-Dho", trong khi theo dõi hơi thở.
[*] Nơi đây dùng hai            chữ "Bud-Dho" (Bút-thô), có nghĩa 
Phật, hay Giác,            như một câu chú (mantra), một phương tiện để 
cột tâm            vào hơi thở
  
Hãy buông trôi, bỏ qua          tất cả những gì ở bên ngoài. Không 
nên cố bám vào những          ý nghĩ về con cái hay họ hàng. Không bám 
vào điều gì, bất          luận gì. Hãy buông bỏ. Hãy để cho tâm tập 
trung vào một          điểm duy nhất và dùng tâm an trụ ấy theo dõi hơi 
thở. Chỉ          hay biết hơi thở. Hơi thở là đối tượng duy nhất của 
tâm.          Ngoài hơi thở không hay biết gì khác. Tập trung tư tưởng  
        như vậy cho đến khi tâm trở thành ngày càng vi tế, cảm          
giác ngày càng không đáng kể, và chừng ấy Cụ sẽ thấy          nội tâm 
trở nên giác tỉnh và vô cùng trong sáng. Chừng          ấy, khi cảm giác
 đau khổ phát sanh, tự nó sẽ dần dần          tan biến. Cuối cùng Cụ sẽ 
nhìn hơi thở như người bà          con đến viếng.
Khi người bà con ra về,          ta đưa ra cửa để tiển chân và nhìn 
theo cho đến khi người          ấy, đi bộ hay lái xe khuất dạng rồi ta 
mới trở lại          vào nhà. Ta cũng theo dõi hơi thở cùng thế ấy. Nếu 
hơi thở          thô kịch, ta hiểu biết rằng nó thô. Nếu là vi tế, ta 
hiểu          biết rằng nó vi tế. Khi nó trở thành càng lúc càng vi tế  
        hơn, ta cứ tiếp tục theo dõi, tâm luôn luôn giác tỉnh. Ðến      
    một lúc nào hơi thở hình như mất luôn, và tất cả những          gì 
còn lại chỉ là cảm giác tỉnh thức. Ðó gọi là gặp          Ðức Phật. Ta 
có sự hay biết rõ ràng trong trạng thái tỉnh          thức gọi là 
"Buddho", người hay biết, người giác          tỉnh, người minh mẫn sáng 
suốt. Ðó là gặp và an trú với          Ðức Phật, với trí tuệ và giác 
ngộ. Bởi vì chỉ có vị          Phật lịch sử nhập Ðại Niết Bàn (Parinibbàna),
 vị          Phật bằng thịt bằng da. Còn vị Phật thật sự, vị Phật       
   toàn giác toàn tri, ngày nay ta vẫn còn có thể chứng nghiệm          
và đạt đến, và vào lúc bấy giờ tâm chỉ có một.
Như vậy, hãy buông bỏ,          đặt xuống tất cả, tất cả ... ngoại 
trừ sự hay biết.          Chớ nên để bị mê hoặc nếu có hình ảnh hay âm 
thanh khởi          phát trong khi hành thiền. Hãy bỏ xuống tất cả. 
Không nên          giữ lấy bất cứ gì. Chỉ an trú trong trạng thái tỉnh 
thức          vô nhị ấy. Chớ nên lo âu cho quá khứ hay vị lai, chỉ ở    
      yên bất động và Cụ sẽ đạt đến nơi mà không còn tiến,          
không còn thối, và không còn dừng, nơi mà không còn gì để          chấp 
thủ hoặc dính mắc. Tại sao? Bởi vì không còn tự          ngã, không còn 
"Tôi" hay "Của Tôi". Tất cả          đều bị bỏ lại, mất đi. Ðức Phật dạy
 ta nên, bằng          cách nầy, làm cho mình trở nên rỗng không, không 
có gì cả,          không mang theo bất cứ gì. Hãy hiểu biết, và đã biết,
          hãy buông bỏ.
Chứng ngộ Giáo Pháp (Dhamma),          con đường giải thoát 
ra khỏi vòng sanh tử triền miên, là          công việc mà tất cả chúng 
ta phải làm đơn độc, mỗi          người cho riêng mình. Như vậy Cụ hãy 
cố gắng buông bỏ          và lãnh hội đầy đủ những lời dạy của Ðức Bổn 
Sư,          thật sự tận lực quán niệm. Không nên bận tâm lo âu cho     
     gia đình. Trong hiện tại các con cháu Cụ như thế nào thì          
họ là vậy, và trong tương lai họ sẽ cũng như Cụ. Trên          thế gian 
không ai có thể lẫn tránh số phận nầy. Ðức Phật          dạy ta hãy đặt 
xuống tất cả những gì không chứa đựng          thực chất. Nếu đặt xuống 
tất cả, Cụ sẽ thấy chân          lý. Nếu không, sẽ không thấy. Nó là 
vậy, và nó là như vậy          đối với tất cả mọi người. Vì thế, Cụ chớ 
nên lo          âu hoặc bám níu vào bất cứ gì.
Cho dù Cụ tự thấy          mình đang suy tư thì cũng tốt vậy, miễn là
 suy tư sáng suốt.          Chớ nên suy tư điên cuồng. Nếu Cụ nghĩ nhớ 
con cháu,          hãy nhớ với trí tuệ. Không nên nghĩ nhớ một cách điên
          rồ. Bất luận gì mà tâm hướng về, Cụ nên suy tư và hiểu        
  biết nó với trí tuệ, sáng suốt nhận thức bản chất          thiên nhiên
 của nó. Nếu Cụ hiểu biết với trí tuệ ắt          Cụ sẽ buông bỏ và sẽ 
không đau khổ, tâm minh mẫn sáng          suốt, hoan hỷ và an lạc, không
 bị khuấy động, không bị          phân tán. Ngay trong lúc nầy, điều mà 
Cụ có thể tìm đến          nương nhờ để được hỗ trợ và nâng đỡ là hơi 
thở của          Cụ.
Ðó là việc làm của          chính Cụ, không phải của ai khác. Hãy để 
cho người khác          làm công việc của họ. Cụ có bổn phận và trách 
nhiệm của          mình và không thể ôm lấy phần việc của ai khác trong 
gia          đình. Không dành công việc của ai, mà buông bỏ. Sự buông   
       bỏ nầy sẽ làm cho tâm Cụ trở nên vắng lặng. Nhiệm vụ          duy
 nhất của Cụ hiện thời là gom tâm lại và đưa nó an          trú trong 
trạng thái vắng lặng. Tất cả những gì khác,          hãy để người khác 
lo. Những hình sắc, những âm thanh,          mùi, vị -- hãy để cho người
 khác lo. Hãy bỏ tất cả lại          sau lưng và làm công việc của mình.
 Bất luận gì phát sanh          trong tâm, dầu đó là lo sợ đau nhức, lo 
sợ chết, băn          khoăn lo lắng cho người hay gì gì khác, Cụ hãy nói
 với          nó: "Chớ có khuấy rầy tôi! Các người không còn là         
 công việc của tôi nữa." Cụ cứ nói như vậy với chính          Cụ, khi 
các pháp (dhammas) ấy khởi phát.
Danh từ "dhamma", pháp, hàm xúc ý nghĩa gì? Tất cả đều là pháp. Không có          cái chi không phải là pháp, dhamma.
 Còn "thế          gian" là gì? Thế gian chính là trạng thái tâm đang 
làm          cho Cụ giao động trong hiện tại. "Người nầy sẽ làm         
 gì?" Khi ta chết rồi, ai sẽ chăm sóc trông chừng chúng          nó? 
Chúng nó sẽ xoay xở như thế nào? Tất cả những điều          ấy chỉ là 
"thế gian". Dầu sự phát sanh suông của          một ý tưởng lo sợ chết, 
hay lo sợ đau nhức, cũng là thế          gian. Hãy vứt bỏ thế gian đi! 
Thế gian là vậy. Nếu Cụ          để cho nó khởi phát trong tâm và dần 
dần xâm chiếm tiềm          thức, tâm Cụ sẽ trở nên lu mờ và không tự 
thấy chính          nó. Vì thế ấy, bất luận gì phát hiện trong tâm, Cụ 
cứ          một mực nói: "Cái nầy không phải là công việc của          
tôi. Nó là vô thường, khổ, và vô ngã."
Nghĩ rằng Cụ muốn tiếp          tục sống thêm lâu dài, sẽ làm cho Cụ 
đau khổ. Nhưng          nghĩ rằng Cụ muốn chết ngay trong tức khắc, hay 
sớm chết          đi cho rồi, thì cũng không đúng. Nó cũng làm cho Cụ 
đau khổ,          có phải vậy không, thưa Cụ? Các vật hữu lậu không 
thuộc          quyền sở hữu của ta. Nó phải diễn tiến theo những định   
       luật thiên nhiên của nó. Về phương cách mà thân nầy phải         
 như thế nào Cụ không thể làm gì được. Cụ có thể làm          cho nó đẹp
 hơn thêm đôi chút, hay làm cho cái hình dáng bề          ngoài của nó 
có phần hấp dẫn và sạch sẽ hơn trong một          lúc, như các thiếu nữ 
điểm trang, dồi phấn thoa son, để          móng tay dài, nhưng khi tuổi 
già đến thì tất cả mọi người          đều cùng chung một hội một thuyền,
 một số phận. Thân          nầy là vậy. Cụ không thể làm gì khác. Nhưng 
điều mà Cụ          có thể cải thiện, làm cho đẹp đẽ hơn, là cái tâm của
          Cụ.
Bất cứ ai cũng có thể          xây dựng một ngôi nhà, bằng gỗ hay 
bằng gạch, nhưng Ðức          Phật dạy rằng loại nhà ấy không phải thật 
sự là của          ta, mà chỉ là của ta trên danh nghĩa. Nó là cái nhà 
trong thế          gian, và nó phải theo đường lối của thế gian. "Ngôi  
        nhà thật sự của chúng ta" là trạng thái an tĩnh bên          
trong. Một cái nhà vật chất ở ngoại cảnh có thể đẹp,          nhưng nó 
không mấy an tĩnh. Nó là nguyên nhân tạo lo âu nầy          đến âu lo 
khác, băn khoăn tư lự nọ đến áy náy buồn          phiền kia. Do đó ta 
nói rằng nó không phải là ngôi nhà thật          sự của ta. Nó ở ngoài 
ta, và sớm muộn gì rồi ta cũng phải          bỏ lại. Nó không phải là 
nơi chốn mà ta có thể sống vĩnh          viễn trong đó, bởi vì không 
thật sự thuộc về ta mà là          một phần của thế gian. Cơ thể của 
chúng ta cũng vậy. Ta          chấp là tự ngã, là "Ta" và "Của Ta", 
nhưng          thực tế không phải là vậy. Nó là một cái nhà khác của    
      thế gian. Thân Cụ đã biến chuyển theo diễn tiến thiên          
nhiên của nó từ lúc được sanh ra đời đến ngày nay,          già và bệnh,
 và Cụ không thể cấm cản nó đổi thay, vì          bản chất của nó là 
vậy. Muốn cho nó phải khác đi cũng          điên rồ như muốn con vịt 
giống con gà. Khi nhận thức rằng          điều nầy không thể được, con 
vịt phải là con vịt, con          gà phải là con gà, và thân nầy phải 
già nua và chết, Cụ          sẽ hồi phục sức khỏe và năng lực. Dầu Cụ có
 thiết          tha mong muốn cho thân nầy tiếp tục tồn tại lâu dài như 
         thế nào, nó sẽ không làm được như vậy. Ðức Phật dạy:
"Anicca vata            sankhàra
 Uppàdavayadhammino
 Uppajjitvà nirujjhanti
 Tesam vùpasamo sukho."
"Các vật được            cấu tạo là vô thường
 Phải sanh rồi diệt,
 Ðã khởi sanh tức có hoại diệt --
 Ngưng được nó là hạnh phúc."
 Danh từ "sankhàra",          được phiên dịch ở đây là các 
vật được cấu tạo,          hay các pháp hữu lậu -- hàm ý là thân và tâm 
nầy -- đều          vô thường, không bền vững, bất ổn định, vừa được cấu
          thành liền tan biến, sanh rồi diệt. Mặc dầu vậy, mọi người    
      đều muốn nó thường còn. Ðó là điên rồ. Hãy nhìn hơi          thở. 
Di chuyển vào trong rồi đi ra ngoài, đó là bản chất          thiên nhiên
 của nó, nó phải là như vậy. Hơi thở vào và          hơi thở ra phải xen
 kẻ nhau tiếp nối, thở vào rồi thở          ra, thở ra rồi thở vào, phải
 có sự thay đổi. Các vật          được cấu tạo, sankhàras, hiện
 hữu do có thay đổi,          Cụ không thể ngăn ngừa điều nầy. Chỉ nên 
suy tư như          sau: Có thể nào thở vào mà không thở ra được chăng? 
Nếu          thở ra mà không thở vào, có nghe dễ chịu không? Hay có thế 
         nào chỉ thở vào mà không thở ra?" Chúng ta muốn rằng          
sự vật phải thường còn, nhưng nó không thể tồn tại          lâu dài. 
Không thể được. Một khi hơi thở đi vào, nó phải          trở ra, khi đi 
ra nó phải vào trở lại, và đó là tự          nhiên. Có phải vậy không, 
thưa Cụ? Ðã được sanh ra, tức          chúng ta phải già nua, bệnh hoạn,
 rồi chết. Ðiều nầy          hoàn toàn tự nhiên và thông thường. Ðó là 
bởi vì các vật          được cấu tạo đã làm phận sự của nó. Cũng vì 
những          hơi thở vào và những hơi thở ra đã xen kẻ tiếp nối       
   nhau đều đặn như vậy mà loài người tồn tại đến ngày          nay.
Vừa khi được sanh ra          là ta chết. Cái sanh và cái tử của 
chúng ta chỉ là một.          Cũng như một cội cây, khi có rễ thì có 
cành lá. Có cành          lá tức có rễ. Cụ không thể có cái nầy mà không
 có cái          kia. Âu cũng là lạ! Người đời ai cũng sầu muộn và thất 
         vọng sâu xa, buồn rầu và khóc than thảm thiết trước cái        
  chết của một người thân, và ai cũng vô cùng thỏa thích,          hân 
hoan đón mừng một em bé được sanh vào đời. Ðó là          ảo kiến. Không
 bao giờ có ai nhìn thấy rõ ràng. Sư nghĩ rằng          nếu thật sự ta 
muốn khóc, thì tốt hơn nên khóc lúc có          ai được sanh ra. Bởi vì 
trong thực tế, sanh là tử, tử          là sanh, cội rễ là cành lá, cành 
lá là cội rễ. Nếu phải          khóc than, hãy khóc ở cội rễ, khóc lúc 
được sanh ra đời.          Xin Cụ nhìn lại tận tường: Nếu không có sanh 
ắt không          có tử. Cụ có thấu hiểu như vậy không?
Cụ chớ nên bận lòng          suy tư nhiều. Chỉ nên nghĩ rằng, "Ðây là
 đường lối          của sự vật. Bản chất của sự vật là vậy". Ðó         
 là phần việc, là nhiệm vụ của Cụ. Ngay trong hiện tại          không ai
 có thể giúp Cụ, không có điều gì mà gia đình          và tài sản sự 
nghiệp của Cụ có thể làm cho Cụ. Tất cả          những gì có thể giúp Cụ
 trong hiện tại chỉ là trạng          thái tỉnh thức, sự hay biết rõ 
ràng, chân chánh. Như vậy          Cụ chớ do dự. Hãy buông xả, vứt bỏ 
tất cả.
Cho dù Cụ không buông          bỏ đi nữa, rồi đây tất cả đều bỏ Cụ ra
 đi, xa lìa          Cụ. Cụ có thể nhận thức điều ấy chăng? Tất cả những
          thành phần khác nhau trong cơ thể đã dần dần len lỏi          
tách rời ra khỏi Cụ, Hãy nhìn tóc Cụ. Lúc thiếu thời          tóc đen và
 rậm, giờ đây đã rụng thưa. Nó đã rời Cụ.          Mắt Cụ trước kia sáng
 tỏ, thấy rõ và thấy xa, giờ đây          đã yếu, chỉ còn thấy mù mờ. 
Khi những bộ phận trong cơ          thể cảm nghe mệt mỏi thì nó ra đi. 
Thân nầy không phải          là nhà của nó. Khi còn trẻ trung, răng Cụ 
vững chắc và mạnh          khỏe, giờ đây đã lung lơ, và chưa chừng Cụ đã
 mang răng          giả. Mắt, tai, mũi. lưỡi, tất cả đều dần dần ra đi, 
         bởi vì đây không phải là nhà của nó. Cụ không thể xử          
dụng những vật được cấu tạo (sankhàra) để làm          nơi cư 
trú vĩnh viễn cho mình. Cụ chỉ có thể tạm ở          trong đó một thời 
gian ngắn rồi phải ra đi. Cũng giống          như người thuê nhà nhìn 
cái nhà thuê nhỏ bé của mình với          cặp mắt ngày càng lu mờ. Răng 
không còn cứng tốt như          xưa, thân không còn tráng kiện, tất cả 
đều ra đi, rời bỏ          Cụ.
Vậy, Cụ không cần phải          bận tâm lo lắng gì đến cơ thể vật 
chất nầy, bởi vì          nó không phải là ngôi nhà thật sự mà chỉ là 
nơi tạm trú.          Ðã sanh vào thế gian, Cụ nên quán tưởng về bản 
chất          thiên nhiên của thế gian. Tất cả mọi sự vật ở đây đều     
     sắp tan biến. Hãy nhìn thân Cụ. Có chi trong đó còn giữ          
nguyên vẹn hình thái sơ khởi của nó không? Da của Cụ có          còn như
 xưa không? Còn tóc của Cụ cũng vậy, không còn y hệt          như trước,
 có phải vậy không? Tất cả đi về đâu? Ðó          là thiên nhiên, vạn 
hữu là vậy. Khi thời gian đến, các vật          được cấu tạo lặng lẽ đi 
theo con đường của nó. Trong          thế gian nầy không có chi mà ta có
 thể nương tựa. Chỉ là          một vòng quanh vô tận dẫy đầy phiền 
nhiễu và rối loạn,          vui buồn, và đau khổ. Không có thanh bình an
 lạc.
Khi mà không có ngôi          nhà thật sự, chúng ta tựa hồ như người 
khách lữ hành          lang thang bất định trên đường, hướng về lối nầy 
một          lúc rồi quay sang ngã kia, dừng chân một ít lâu, rồi lại   
       cất bước lên đường. Chí đến khi trở về ngôi nhà thật          sự 
của mình, dầu có làm gì đi nữa, chúng ta cảm nghe          luôn luôn kém
 thoải mái, giống như người rời bỏ xóm          làng quê quán của mình 
để dấn thân vào một cuộc hành          trình xa xôi. Chí đến khi về nhà 
trở lại người ấy mới          có thể cảm nghe dễ chịu và thoải mái.
Không có nơi nào trên          thế gian mà ta có thể tìm được thanh 
bình thật sự. Người          nghèo khổ không thanh bình, người giàu có 
cũng vậy. Người          lớn không thanh bình, và trẻ con cũng không 
thanh bình. Người          quê mùa dốt nát không thanh bình, và người 
học rộng biết          nhiều cũng không thanh bình.
Không có nơi nào thanh          bình an lạc. Ðó là bản chất thiên 
nhiên của thế gian. Người          ít tài sản sự nghiệp đau khổ, người 
tiền rừng bạc bể          cũng đau khổ. Trẻ con, người lớn, người già, 
mọi người          đều đau khổ. Ðau khổ vì già yếu, đau khổ vì trẻ thơ, 
         đau khổ vì giàu có và đau khổ vì bần hàn -- tất cả chỉ         
 là đau khổ.
Khi Cụ đã quán chiếu          và suy niệm sự vật theo chiều hướng nầy Cụ sẽ thấy vô          thường (anicca), và bất toại nguyện (dukkha). Tại          sao sự vật là vô thường và bất toại nguyện? -- Bởi vì          sự vật là vô ngã (anattà).
Cả hai -- cái thân nằm          đây của Cụ, bệnh hoạn và đau đớn, và 
cái tâm hay biết          trạng thái bệnh hoạn và đau đớn ấy -- đều được
 gọi          là dhammas, pháp. Thành phần không có hình sắc, như những          tư tưởng, những cảm thọ, và tri giác thì được gọi là          nàma dhamma, danh pháp. Còn cái mà bị nhức nhối và đớn          đau giày xéo thì được gọi là rùpa dhamma, sắc          pháp. Vật chất là pháp, dhamma. Tinh thần cũng là          pháp, dhamma. Như vậy, chúng ta sống trong dhammas,          chúng ta là dhamma.
 Trong thực tế, bất luận ở đâu cũng          không có tự ngã. Chỉ có 
những pháp không ngừng sanh diệt.          Bản chất thiên nhiên của nó 
là vậy. Trong mỗi khoảnh khắc          rất vi tế chúng ta sanh rồi diệt.
 Ðó là đường lối của          sự vật.
Mỗi khi chúng ta tưởng          niệm Ðức Thế Tôn, nhớ đến những lời 
dạy của Ngài          chính xác đúng thật như thế nào, chúng ta vô cùng 
cảm          kích nhận định rằng Ngài quả thật xứng đáng được lễ        
  bái cúng dường, đáng được tôn sùng và kỉnh mộ dường          nào. Mỗi 
khi chúng ta thấy được chân lý của điều gì          là chúng ta thấy lời
 dạy của Ngài, mặc dầu chưa bao giờ          chúng ta thực hành Giáo 
Pháp. Tuy nhiên, nếu chúng ta có kiến          thức về những lời dạy của
 Ðức Thế Tôn, có học và          có hành nhưng chưa bao giờ thấy được 
chân lý của sự vật,          thì chúng ta vẫn còn là người không nhà 
cửa.
Do đó, Cụ hãy thấu          hiểu điểm then chốt rằng tất cả mọi 
người, tất cả          mọi tạo vật, đều sắp lìa đời. Khi chúng ta sanh 
sống          đủ thời gian thích ứng của mình thì phải ra đi, theo con  
        đường của mình. Người giàu, người nghèo, người trẻ,          
người già, tất cả chúng sanh đều phải trải qua biến đổi          nầy.
Khi nhận thức thế          gian là vậy Cụ sẽ cảm thấy rằng thế gian 
nầy quả thật          đáng chán. Khi thấy không có gì ổn định hay có 
thực chất          mà ta có thể nương tựa Cụ sẽ cảm nghe mệt mỏi và thất
          vọng sâu xa.
Mặc dầu vậy, thất vọng          ở đây không có nghĩa là phiền muộn 
hay ghét bỏ. Tâm Cụ          đã sáng tỏ và thấy rằng không thể nào làm 
gì để cứu          chữa tình trạng nầy. Con đường của thế gian chỉ là 
vậy.          Thấu hiểu như thế ấy Cụ sẽ có thể buông tay để cho mọi    
      bám níu đi qua và bỏ lại tất cả với tâm trạng thản          nhiên,
 không vui, không buồn, mà thanh bình an lạc với các          pháp được 
cấu tạo, sankhàra, do nhờ trí tuệ minh mẫn,          thấy được bản chất vô thường của vạn pháp.
 
Anicca vata sankhàra,          tất cả các pháp hữu vi đều vô
 thường. Nói một cách          đơn giản, vô thường là Buddha, Phật. Nếu 
thật sự thấy          rõ ràng một hiện tượng là vô thường ta sẽ thấy 
rằng          nó thường còn, thường còn trong ý nghĩa, "đặc tính        
  phải biến đổi của nó không bao giờ đổi thay." Ðó          là trạng 
thái thường còn mà chúng sanh được có. Có sự          đổi thay không 
ngừng từ lúc còn thơ ấu, xuyên qua thời          niên thiếu, chí đến 
tuổi già. Chính trạng thái vô thường          của bản chất phải biến đổi
 là thường còn, bất di dịch.          Nếu nhìn sự vật với nhãn quan ấy 
tâm Cụ sẽ bình thản,          thoải mái dễ chịu. Không chỉ riêng Cụ phải
 trải qua thực          trạng nầy mà tất cả mọi chúng sanh.
Khi nhận xét sự vật          như vậy Cụ sẽ thấy chán nản, mệt mỏi và 
ghê tởm sự          vật của thế gian và cảm nghe vô cùng thất vọng. Tình
 trạng          thỏa thích trong nhục dục ngũ trần của Cụ sẽ tan biến.  
        Cụ sẽ thấy rằng nếu có thật nhiều tài sản, Cụ sẽ bỏ          lại
 sau lưng thật nhiều. Nếu có ít, Cụ sẽ bỏ lại ít.          Tiền của chỉ 
là tiền của, tuổi thọ chỉ là tuổi thọ,          không có gì đặc biệt.
Ðiểm quan trọng là ta          phải làm đúng theo lời dạy của Ðức Bổn
 Sư, xây dựng          ngôi nhà cho chính ta, xây dựng ngôi nhà theo 
phương pháp mà          Sư đã giảng cho Cụ. Hãy dựng lên ngôi nhà cho 
Cụ. Hãy          buông bỏ. Buông bỏ cho đến chừng nào tâm Cụ tiến đạt   
       đến trạng thái thanh bình an lạc mà không còn tiến tới,          
không còn thối lui, và không còn dừng lại đứng yên một          chỗ. 
Khoái lạc không phải là nhà của ta. Ðau khổ không          phải là nhà 
của ta. Cả hai -- khoái lạc và đau khổ -- đều          phải suy tàn và 
biến dạng.
Ðức Thượng Sư đã          chứng ngộ rằng tất cả các pháp được cấu tạo (sankhàras)
          đều vô thường. Vì lẽ ấy Ngài dạy ta không nên bám níu         
 vào các pháp ấy mà buông xả tất cả. Vào lúc đến mức          tận cùng 
của cuộc đời, chúng ta không còn có sự lựa chọn          nào, không đem 
gì theo được. Như vậy có phải chăng tốt          hơn nên bỏ xuống tất cả
 trước khi giai đoạn ấy đến?          Nó chỉ là gánh nặng, tại sao ta 
không quẳng đi ngay bây giờ?          Tại sao còn phải bận lòng kéo lôi 
kéo lết nó đi quanh quẩn          đầu nầy đầu nọ? Cụ hãy buông bỏ, hãy 
an nghĩ và để          cho gia đình chăm sóc Cụ.
Những ai dưỡng nuôi          người bệnh ắt trưởng thành trong thiện 
pháp và đức hạnh.          Còn bệnh nhân, trong khi giúp cho người khác 
được cơ hội          tốt đẹp ấy, không nên tạo khó khăn cho người nuôi  
        mình. Nếu có đau đớn, nhức nhối, hay một vài bất ổn          
khác, hãy cho người điều dưỡng mình biết và luôn luôn          giữ tâm 
trong sạch. Người dưỡng nuôi cha mẹ đau đớn nên          làm bổn phận 
mình với tấm lòng đầy tình thương nồng          ấm và dịu hiền, không 
nên khó chịu hay bực bội. Ðây          là cơ hội duy nhất mà người con 
hiếu thảo có thể đền          đáp phần nào công ơn sanh thành dưỡng dục,
 trang trải món          nợ của mình đối với cha mẹ.
Từ thuở lọt lòng mẹ          đến tuổi thiếu nhi, và dài dài theo thời
 gian trưởng thành,          luôn luôn ta nương nhờ nơi cha mẹ. Ta được 
như vầy ngày          hôm nay là bởi vì cha và mẹ ta đã vô vàn khổ nhọc 
giúp          ta trên mọi phương diện. Công ơn cha mẹ mà ta phải mang   
       trong lòng quả thật không thể đo lường.
Ngày hôm nay tất cả          các con và thân quyến của Cụ tụ hội về 
đây, nhìn thấy          cha mẹ mình trở thành con cái của mình như thế 
nào. Trước          kia quý vị là con của Cụ, ngày nay Cụ đã trở thành 
con của          quý vị. Con người lớn lên và ngày càng già thêm, già   
       thêm nữa, mãi cho đến khi trở thành trẻ con trở lại.          Trí
 nhớ đã mất, mắt không còn thấy, và tai không còn          nghe rõ như 
trước, đôi khi nói năng ú ớ, tiếng được tiếng          không, không suôn
 sẻ rõ ràng. Chớ nên để những điều          ấy làm cho quý vị khó chịu. 
Ðang dưỡng nuôi người bệnh,          tất cả quý vị phải biết làm thế nào
 để buông bỏ mà          không dính mắc. Không nên bám níu vào sự vật, 
chỉ buông          bỏ và để cho nó đi theo con đường của nó. Một đứa bé 
         không biết vâng lời, đôi khi cha mẹ nhắm mắt bỏ qua để         
 được yên ổn, và cho nó vui. Giờ đây cha mẹ của quý vị          cũng 
giống như đứa bé ấy. Trí nhớ và sự nhận thức của          Cụ đã mù mờ. 
Ðôi khi lầm lẫn tên của quý vị, hoặc cũng          có lúc quý vị hỏi xin
 cái tách Cụ lại đưa cho cái dĩa.          Tình trạng ấy là bình thường,
 quý vị chớ nên khó chịu,          bực mình.
Hãy để cho bệnh nhân          hồi nhớ lại thái độ từ ái dịu hiền của 
người nuôi          dưỡng họ và nhẫn nại chịu đựng những cảm giác đau   
       đớn. Cụ hãy tận lực cố gắng, không để cho tâm phân          tán 
và chao động, không nên gây tình trạng mất thoải mái          và khó 
chịu cho những người chăm sóc Cụ. Cụ nên để          cho người điều 
dưỡng giữ tâm đượm nhuần đức hạnh          và từ ái, không nên làm cho 
họ bất mãn vì những việc          không mấy hấp dẫn như phải lau chùi 
rửa ráy mũi dãi và          đờm hoặc nước tiểu và phẩn. Cụ hãy hết sức 
cố gắng.          Trong gia đình mỗi người hãy giúp một tay.
Ðối với quý vị con          cái trong nhà, hai Cụ là bậc cha mẹ duy 
nhất. Các Cụ cho          quý vị sự sống, các Cụ là thầy của quý vị, là 
người          điều dưỡng, là bác sĩ của quý vị, là tất cả đối với      
    quý vị. Các Cụ đã dưỡng nuôi, dạy dỗ quý vị, đã          chia sớt 
tài sản cho quý vị và xem quý vị là những người          tiếp nối công 
nghiệp của các Cụ -- phần gia sản lớn          lao của người làm cha mẹ.
 Do đó Ðức Phật truyền dạy hạnh          katannu và katavedi --
 hiểu biết món nợ ân nghĩa          sâu dày, và cố gắng đền đáp ân sâu 
nghĩa nặng ấy. Hai          đức tánh nầy hỗ trợ bổ túc lẫn nhau.
Nếu cha mẹ ở trong          hoàn cảnh ươn yếu bệnh hoạn, hay gặp phải
 khó khăn thì          phận làm con phải tận lực cố gắng phụng dưỡng các
 Cụ.          Ðó là katannu-katavedi, đức hạnh có tác dụng nâng
 đỡ          và bảo tồn thế gian. Nó ngăn ngừa mọi rạn nứt và làm       
   cho gia đình tồn tại vững bền, ổn định và điều hòa.
Hôm nay Sư mang Giáo          Pháp đến làm quà tặng cho Cụ trong lúc 
ốm đau nầy. Sư          không có quà vật chất nào để tặng Cụ. Hình như 
trong nhà          đã có đầy đủ vật chất. Vậy, Sư chỉ biếu Cụ Giáo      
    Pháp, món quà mà Cụ không bao giờ có thể làm vơi cạn.          Ðã 
nhận lãnh quà, Cụ có thể trao chuyển lại cho bao          nhiêu người 
khác cũng được, nó sẽ không bao giờ hư mòn          hay hư hoại. Ðó là 
bản chất thiên nhiên của Chân Lý.
* * *
Sư lấy làm hoan hỷ          hôm nay có thể tặng Cụ món quà Pháp Bảo, 
và hy vọng rằng          nó sẽ giúp Cụ được nhiều năng lực để đối phó 
với          trạng thái đau đớn của tuổi già.
NGÀI AJAHN CHAH
Ngài          Ajahn Chah sanh trưởng trong một gia đình khá giả ở 
vùng đồng          quê miền Ðông-Bắc xứ Thái. Ngài xuất gia Sa-Di vào 
lúc          thiếu thời và thọ Tỳ Khưu Giới vào năm 20 tuổi. Là một     
     tỳ khưu trẻ Ngài chuyên cần học căn bản Phật Pháp, Giới          
Luật và Kinh Ðiển, rồi sau đó vào rừng sâu hành thiền dưới          sự 
hướng dẫn của nhiều vị thiền sư trong vùng. Suốt          nhiều năm 
trường đi đó đây, Ngài thực hành lối tu của          các vị đạo sĩ ẩn 
dật sống giữa rừng núi, chỉ ngủ          nghỉ dưới những cội cây vắng 
vẻ, những hang đá hoang          vu, hoặc trên các bãi tha ma. Vào lúc 
bấy giờ Ngài được          cơ hội trải qua một thời gian ngắn nhưng vô 
cùng hữu          ích theo học với Ngài Ajahn Mun, vị Thiền Sư lỗi lạc 
có          nhiều uy tín và được tôn trọng nhất tại Thái Lan trong      
    thế kỷ nầy.
Sau nhiều năm du          phương và thực hành, Ngài nhận lời cung 
thỉnh về an trú          trong một khu rừng rậm gần quê nhà. Nơi đây 
không có người          ở và được nổi tiếng là có nhiều rắn độc, cọp hùm
          và ma quái. Theo lời Ngài, đó là chỗ cư trú toàn hảo, rất     
     thích hợp với một tỳ khưu sống trong rừng. Không bao lâu          
sau, một tu viện rộng lớn được xây dựng xung quanh nơi          đó vì số
 người -- tỳ khưu, nữ tu sĩ, cũng như tại gia          cư sĩ -- đến nghe
 Ngài thuyết giảng và lưu lại thực hành          với Ngài càng lúc càng 
đông. Ðến nay có hơn bốn mươi ngôi          chùa đã được thành lập trong
 vùng đồi núi hoặc ở rừng          sâu, cùng khắp xứ Thái cũng như ở Anh
 Quốc và Úc Ðại Lợi.
Khi bước chân vào khu          vực Wat Pah Pong khách thập phương 
thường gặp các nhà sư          đang kéo nước ở giếng và thấy bên đàng có
 tấm bảng          ghi mấy dòng chữ: "Nầy bạn, xin giữ im lặng! Chúng   
       tôi đang cố gắng hành thiền". Mặc dầu mỗi ngày đều          có 
hai thời hành thiền tập thể, nòng cốt của pháp hành          chính là 
lối sống luôn luôn an trụ trong chánh niệm. Chư          Tăng làm những 
công việc lao động như nhuộm hoặc vá y,          hay trông coi chăm sóc 
phần lớn những nhu cầu thiết yếu          và giữ cho trong ngoài các 
tịnh thất đâu đó ngăn nắp và          sạch sẽ. Những vị sư ở đây sống 
hết sức đơn giản,          đúng theo giới luật của các vị tu sĩ ở rừng, 
ngày chỉ          thọ thực một lần trong bình bát. Tư sản và y phục rất 
         hạn chế. Rải rác ở các nơi khắp khu rừng có những lều          
cốc cá nhân vừa đủ cho một nhà sư cư ngụ và an tĩnh tọa          thiền. 
Bên ngoài tịnh thất các sư đi thiền hành trên những          con đường 
mòn nhỏ trống trải dưới bóng cây.
Giới luật cực kỳ          nghiêm chỉnh giúp hành giả tự khép mình vào
 nếp sống          đơn giản và trong sạch trong một đoàn thể êm thấm và 
         điều hòa, nơi đây có thể dễ dàng trau giồi đức hạnh,          
thiền tập và phát triển trí tuệ, một cách thuận lợi          và liên 
tục.
Ðường lối giảng dạy          tuy giản dị nhưng rất sâu sắc của Ngài 
Ajahn Chah đặc biệt          hấp dẫn đối với người Tây Phương. Khá đông 
người đã          đến học và thực hành với Ngài trong nhiều năm qua. Vào
 năm          1975 ngôi thiền viện Wat Pah Nanachat được thiết lập bên 
cạnh          tổ đình Wat Pah Pong, dành làm nơi tu tập cho số người    
      Phương Tây thích sống đời tu viện. Từ đó một số đông          các 
vị đệ tử đã có tu học nhiều năm với Ngài Ajahn          Chah bắt đầu 
công cuộc hoằng dương Giáo Pháp ở Phương          Tây. Chính Ngài cũng 
đã công du hai lần ở Âu Châu và Bắc          Mỹ, và đã thành lập một chi
 nhánh rộng lớn tại Sussex,          Anh Quốc.
Trí tuệ là một lối          sống và tồn tại. Ngài Ajahn Chah cố gắng 
bảo tồn lối sống          đơn giản của chư vị tỳ khưu để ngày nay nhiều 
người          có thể nghiên cứu, học hỏi, và thực hành Giáo Pháp.
Ðường lối giáo huấn          đơn giản một cách kỳ diệu của Ngài Ajahn
 Chah có thể          làm cho người ta thất vọng. Lắm lúc, chỉ sau khi 
đã nghe          Ngài giảng nhiều lần tâm của ta bỗng nhiên trở nên chín
          mùi, nắm vững và thấu hiểu ý nghĩa sâu xa của lời dạy.        
  Ngài có những phương pháp rất khéo để sắp xếp lời giảng          thích
 ứng với hoàn cảnh, đúng nơi, đúng lúc, và thích hợp          với căn cơ
 hiểu biết và xúc cảm của cử tọa. Quả thật          tuyệt vời! Ðôi khi 
đặt xuống giấy trắng mực đen ta thấy          hình như bài giảng không 
mạch lạc, hoặc hơn nữa, tự mâu          thuẫn lẫn nhau! Vào những lúc 
như thế người đọc nên nhớ          rằng những lời dạy mà Ngài nói lên 
diễn đạt trung thực          một kinh nghiệm sống. Cùng thế ấy, nếu lời 
giảng của          Ngài đôi khi hình như khác biệt với lối giảng thông 
thường,          ta phải biết rằng Ngài Ajahn Chah luôn luôn nói ra 
những lời          xuất phát từ đáy lòng, từ những kinh nghiệm sâu xa 
nhất          trong khi Ngài hành thiền.