ĐÁP: Đó là do người Niệm-Phật đến lúc lâm-chung không đủ nhân-duyên. Nếu nhân-duyên đầy-đủ thì chắc-chắn được vãng-sinh.
2. HỎI: Nhân-duyên là sao?
ĐÁP: Người tu bình-sinh chân-tín, thiết-nguyện, Niệm-Phật cầu sinh
Tây-Phương mà đến lúc lâm-chung vẫn có được tâm-niệm nầy, thì đó là
“nhân” TỰ-LỰC. Nếu bình-sinh chưa biết về tín-nguyện, Niệm-Phật cầu
sinh Tây-Phương, đến lúc lâm-chung may mắn được gặp thìện-hữu hướng-dẫn
mà sinh tín, phát nguyện, cầu sinh Tây-Phương, thì đó cũng là “nhân”
TỰ-LỰC. Giáo-chủ Tây-Phương Cực-Lạc Thế-Giới là Đức Phật A-Di-Đà cùng
vạn-đức hồng-danh của Ngài có thể khiến cho chúng-sinh được sinh sang
cõi Tây-Phương Cực-Lạc, thì đó là “duyên” THA-LỰC.
Lúc lâm-chung mà được thiện-hữu trợ-niệm, cũng là “duyên” THA-LỰC.
3. HỎI: Người tu đến lúc lâm-chung mà đầy-đủ nhân-duyên thì chắc-chắn được vãng-sinh, xin giải rõ lý nầy.
ĐÁP:
Người tu đến lúc lâm-chung mà chân tín, thiết nguyện, Niệm-Phật thì Đức
Phật A-DI-ĐA` là “duyên” THA-LỰC, còn cái tâm năng-niệm là “nhân”
TỰ-LỰC. Ngay lúc đó, dùng cái tâm năng-niệm mà niệm Đức Phật A-DI-ĐÀ
thì Đức Phật A-DI-ĐÀ nhân cái tâm năng-niệm mà hiển-hiện. Cái tâm
năng-niệm lại nhờ sự hiển-hiện của Đức Phật A-DI-ĐÀ mà được thanh-tịnh.
Ngay phút giây đó, chính là TỰ-LỰC và THA-LỰC cảm-ứng đạo-giao,
nhân-duyên hòa-hợp, do đó mà được vãng-sinh Tây-phương Cực-lạc.
4. HỎI: Người Niệm-Phật đến lúc lâm-chung mà không đủ nhân-duyên thì không được vãng-sinh. Xin giải rõ lý nầy.
ĐÁP: Người tu lúc bình-sinh tín-nguyện Niệm-Phật mà công-phu
chưa được thuần-thục, thì đến lúc lâm-chung tuy có tín-nguyện cầu sinh
Tây-Phương (có “nhân”), nhưng bị bệnh khổ và đủ thứ phiền-não bức-bách
nên cái tâm Niệm-Phật khởi lên không nổi. Nếu không có thiện-hữu
hướng-dẫn, trợ-niệm (không “duyên”), lại gặp thân-thuộc không hiểu
đạo-lý, cứ khóc-lóc, hỏi-han thì tâm người tu khởi lên đủ thứ tạp-niệm
mà không được vãng-sinh. Trường-hợp nầy gọi là có “nhân” mà không
“duyên” nên không thể vãng-sinh.
Lại cũng có người bình-thường tín-nguyện Niệm-Phật cho có lệ.
Đến lúc lâm-chung may-mắn được thiện-hữu trợ-niệm (có “duyên”),
thân-thuộc cũng không khóc lóc làm chướng ngại. Khổ nỗi người tu tự tâm
mình sinh điên-đảo, tham-luyến thế-gian, không khởi tâm Niệm-Phật cầu
sinh Tây-Phương (không “nhân”), bởi vậy theo ái-dục mà đầu thai các nẻo
thiện ác. Đây gọi là có “duyên” mà không “nhân” nên không thể
vãng-sinh.
Lại cũng có người bình-thường Niệm-Phật chĩ để cầu cho gia-đạo
bình-an, mạnh-khỏe sống lâu v..v… Do đó đến phút lâm-chung thì chỉ có sợ
chết. Khi bệnh chưa nặng lắm thì cũng Niệm-Phật nhưng để cầu lành bệnh
chứ không hề có tâm-nguyện cầu vãng-sinh (không “nhân”). Đến khi bệnh
trở nên nguy-kịch thì bệnh khổ bức-bách do đó không thể Niệm-Phật.
Thân-thuộc cứ theo thế tình mà làm động tâm thêm, lại không được
thiện-hữu trợ-niệm (không “duyên” nên không thể vãng-sinh.
5. HỎI: Vậy thì người tu Niệm-Phật đến lúc lâm-chung, thế nào là nhân-duyên đầy đủ để được vãng-sinh?
ĐÁP:
Như có hạng người đại căn-cơ, lúc bình-sinh chân tín, thiết nguyện,
Niệm-Phật. Tín-nguyện đã rất chân-thiết, công-phu Niệm-Phật lại rất
thuần-thục. Đến lúc lâm chung, không cần phải người khác trợ-niệm mà
vẫn cứ một mực tín-nguyện Niệm-Phật, tâm-niệm an trụ nơi hồng-danh của
Đức Phật A-Di-Đà. Kinh A-Di-Đà chép: “Nhất tâm bất loạn tất được
vãng-sinh.” Là chỗ nầy. Đây gọi là nhân-duyên đầy-đủ của hàng
thượng-căn.
Cũng có hạng người tu binh-thường chân-tín, thiết-nguyện nhưng
công-phu Niệm-Phật chưa được thuần-thục. Đến lúc lâm-chung thì lòng
tín-nguyện cầu sinh Tây-Phương so với lúc bình-thường lại càng
tha-thiết, không bị bệnh khổ hay các chướng-duyên làm dao-động. Lại có
được thiện-hữu trợ-niệm. Nhờ vậy tâm của người nầy niệm-niệm an-trụ nơi
hồng-danh của Đức Di-Đà mà được vãng-sinh. Đây là nhân-duyên đầy-đủ
của hàng trung-căn.
Cũng có hạng người lúc bình-thường không biết gì về tín-nguyện
Niệm-Phật cầu sinh Tây-Phương. Đến lúc lâm-chung may-mắn được gặp
thiện-hữu khai-thị. Hoặc nói về y-chánh thanh-tịnh tran-nghiêm của
Thế-Giới Cực-Lạc khiến tâm người nầy sinh hoan-hỷ hân-cầu. Lại nói về
Bổn-Nguyện tiếp-dẫn chúng-sinh của Đức A-Di-Đà khiến tâm người nầy sinh
chánh-tín mà quyết-đinh Niệm-Phật cầu sinh Tây-Phương. Quyến-thuộc lại
chịu nghe theo sự hướng-dẫn của thiện-hữu, không làm điều gì có thể
khiến cho tâm người bệnh dao-động. Nhờ vậy ngay phút lâm-chung, người
nầy Niệm-Phật với sự tha-thiết như đứa bé thơ bị lạc mẹ. Do đó được
từ-lực của Phật tiếp-dẫn mà vãng-sinh. Đây là nhân-duyên đầy-đủ của
hàng hạ-căn.
6. HỎI:
Người lúc bình-thường hoàn-toàn chưa biết tín-nguyện Niệm-Phật, đến lúc
lâm-chung gặp được thiện-hữu khai-thị, sau khi nghe xong, tâm sinh
hoan-hỷ, tín-thụ, phát-nguyện Niệm-Phật cầu sinh Tây-Phương.
Quyến-thuộc cũng không gây ra các chướng-ngại. Lại được trợ-niệm mà
vãng-sinh Tây-Phương. Sao mà dẽ-dàng như vậy được?.
ĐÁP: Xin giải rõ thêm. Người nầy lúc bình-thường chưa hề
tín-nguyện, Niệm-Phật cầu sinh Tây-Phương là vì KHÔNG BIẾT. Đến lúc
lâm-chung gặp được thiện-hữu khai-thị mà sinh tâm quyết-định tín-nguyện
Niệm-Phật. Điều nầy chứng-tỏ rằng đời trước đã có căn-duyên Niệm-Phật.
Đây là “nhân” thù-thắng. Được thiện-hữu khai-thị, trợ-niệm là “duyên”
thù-thắng. Trường-hợp nầy hy-hữu rất ít có.
7. HỎI:
Chúng tôi là hàng Phật-tử tại gia. Nếu đến phút lâm-chung của người
thân mà không mời được thiện-hữu trợ-niệm thì phải làm sao đây để giúp
thân-nhân được vãng-sinh?
ĐÁP: Quý vị có lòng như vậy thật đáng quý. Xin đọc kỹ những điều hướng-dẫn sau đây.
NHỮNG ĐIỀU MÀ QUYẾN-THUỘC
CỦA NGƯỜI LÂM-CHUNG CẦN CHÚ-Ý
1. Theo Phật-Pháp, phút lâm-chung là thời điểm rất quan-trọng
của một kiếp người. Vì sao vậy? Vì đây là lúc có sự đột biến để thăng
hay giáng theo sáu đường. Những diều xảy ra ở phút lâm-chung
(cận-tử-nghiệp) ảnh-hưởng rất lớn đến sự thăng-giáng nầy. Đối với người
tu Tịnh-Độ thì lại càng cực-kỳ trọng-yếu.
2. Khi có người thân sắp lâm-chung, nếu có Hội Trợ-Niệm cần phải
mời họ đến. Khi họ đã đến thì tất-cả mọi người trong nhà phải
tuyệt-đối tuân theo sự hướng-dẫn của họ, không được xen ý riêng của mình
vào. Nếu không có Hội Trợ-Niệm thì người trong nhà lo trợ-niệm cũng
được, cần-yếu là theo đúng Phật-Pháp (sẽ được trình-bày cặn-kẽ ở những
phần sau). Điều quan-trọng cần tuân-thủ là hãy làm ma-chay, đừng
sát-sanh và cả nhà an chay trong thời-điểm nầy. Khi bệnh người thân trở
nặng thì chỉ lo trợ-niệm chứ ĐỪNG CHO UỐNG NHÂN-SÂM HAY TIÊM THUỐC
HỒI-SINH. Vì làm vậy rất trở-ngại cho chuyện vãng-sinh Tây-Phương. Xin
ghi nhớ điều nầy.
3. Phải biết rằng khi người thân lâm-chung, họ phải theo một
trong bảy đường sau: Ba đường dữ (Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sinh), Ba
đường lành (Trời, Người, A-tu-la), và Thánh-đạo Tây-Phương Cực-Lạc.
Mình trợ-niệm để giúp họ được vãng-sinh Tây-Phương, vĩnh-viễn thoát khỏi
sáu nẻo luân-hồi. Trái lại, nếu mình khóc-lóc, kêu réo, thở-than thì
chỉ khiến cho họ động tâm mà đọa vào ba đường dữ. Hãy suy-nghĩ cặn-kẻ
điều nầy.
4. Trong kinh-điển Phật đã dạy tường-tận rằng nếu đọa vào ba
đường dữ thì chịu muôn vàn thống-khổ, nhất là địa-ngục thời-gian lại rất
dài lâu. Những điều nầy là sự thực, chứ không phải là chuyện ngụ-ngôn
mà Đức Phật đặt ra để răn đời. Trái lại nếu được vãng-sinh Tây-Phương
thì vĩnh viễn thoát khỏi ba đường dữ, được ở địa-vị bất thối-chuyển,
thân-cận Đức A-Di-Đà và thánh chúng mà an vui tu-tập.
5. Nếu người bệnh bình-thường đã có tâm-nguyện Niệm-Phật cầu
sinh Tây-Phương thì rất tốt. Nếu không có tín-tâm hoặc không thông-hiểu
về chuyện Niệm-Phật cầu sinh Tây-Phương thì người thân hãy giải-thích
cho họ hiểu rằng “làm người không phải vĩnh-viễn cứ làm người. Có sáu
đường sinh-tử luân-hồi, trong đó ba đường dữ rất thống khổ mà lại dễ đọa
vào. Ngược lại Thế-giới Tây-Phương của Đức A-Di-Đà thì rất là an-lạc,
được sinh sang đó thì vĩnh-viễn không bị đọa vào ba đường dữ. Phước-lạc
của người được sinh sang đó thật không thể nghĩ-bàn. Điều-kiện để được
vãng-sinh thì do Bổn-Nguyện của Đức A-Di-Đà nên rất dễ-dàng. Hễ có
tín-nguyện mà niệm Danh-hiệu của Ngài (NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT) thì lúc
lâm-chung chắc-chắn được Ngài đến rước về cõi Tây-Phương Cực-Lạc.
6. Tâm-niệm của người sắp lâm-chung ảnh-hưởng rất lớn đến kiếp
lai-sinh của họ (Cận-tử-nghiệp) do đó người thân làm sao để họ không bị
phiền-não. Khi họ còn tỉnh-táo hãy hỏi rõ những gì cần căn-dặn. Làm
sao để họ yên-tâm mà ra đi. Tuyệt-đối đừng đem những vấn-đề nhiêu-khê
của kiếp người mà làm họ bận-tâm trong thời điểm nầy. Phải biết rằng
làm vậy thì không những người chết bị đọa lạc, mà người sống cũng sẽ bị
chướng-duyên nặng-nề trong tương-lai.
7. Nếu có thân-hữu hoặc bà con đến thăm người bệnh, thì trước
khi họ gặp người bệnh hãy yêu-cầu họ đừng nói hay làm gì có thể gây
chướng-duyên cho vấn-đề vãng-sinh.
8. Vấn-đề trợ-niệm cũng phải hết sức tế-nhị. Khi người bệnh còn
tỉnh-táo, hãy hỏi kỷ về ý-muốn của ho. Ví dụ muốn được lớn tiếng trợ
niệm hay niệm vừa đủ nghe là được, dùng khánh, mõ hay chuông v..v…Tùy
theo hoàn-cảnh mà thiết-trí tượng Đức A-Di-Đà chứ không phải nhất-thiết
là phải ở hướng Tây. Đừng chấp-chặt theo hình-thức mà làm người bệnh
phiền-não.
9. Cũng có người bệnh do nghiệp-chướng của họ mà không muốn
người khác thế họ Niệm-Phật, không muốn nghe người khác Niệm-Phật, hoặc
nghe Niệm-Phật thì bực-bội. Gặp trường-hợp nầy quyến-thuộc hãy đến
trước bàn Phật, thành-khẩn vì họ mà cầu xin sám-hối. Xin kể hai chuyện
mới xảy ra gần đây. Năm ngoái có một vị cư-sĩ, khi mẹ ông bị bệnh sắp
mất, ông liền mời Hội Trợ-Niệm đến nhà để hộ-niệm cho mẹ. Mẹ ông khi
nghe Niệm-Phật, trong lòng bức-rức chịu không nổi nên yêu cầu đừng
niệm! Thầy quy-y của vị cư-sĩ thấy vậy, biết rằng đây là nghiệp-chướng
phát hiện, liền tụng cho bà mấy bộ kinh Địa-Tạng. Vị cư-sĩ cũng hết-sức
thành-khẩn đối trước phật ăn-năn sám-hối cho mẹ. Sau đó, bà đột-nhiên
hoan-hỷ muốn nghe Niệm-Phật mà an-nhiên vãng-sinh. Lại có một vị cư-sĩ
khác, cha ông bị bệnh khi sắp mất thấy một người đàn bà và một con chó
đến đòi mạng. Cư-sĩ liền Niệm-Phật sám-hối cho cha thì ông không còn
thấy nữa. Sau đó cha ông lại thấy hai nhà sư hiện đến nói rằng: “Ông
đời trước ngăn-cản chúng tôi vãng-sinh, nay chúng tôi đến để cản ông
đây”. Cư-sĩ lại vì cha đối trước Phật sám-hối và cầu siêu cho hai vị
tăng. Cha ông không còn thấy họ nữa. Sau cùng cha ông thấy một lão
tăng hiện đến mà bảo rằng: “Oan-nghiệp của ông đã được tiêu trừ, ba lần
bảy nữa ông sẽ được vãng-sinh. Cứ nói ‘ba lần bảy’ là con ông hiểu.”.
Cả nhà đều cho rằng ‘ba lần bảy’ là 21 ngày. Trợ-niệm bấy lâu đã mệt
nay lại thêm 21 ngày quả thật là khó-khăn. Không ngờ 21 giờ sau thì
người cha được vãng-sinh. Hai câu chuyện có thật trên đây cho thấy sự
trọng-yếu của vấn-đề trợ-niệm lúc lâm-chung.
10. Khi người bệnh sắp tắt thở thì nếu đã có người trợ-niệm,
thân-nhân hãy đối trước bàn Phật A-Di-Đà, khẩn thiết cầu xin Ngài
tiếp-dẫn thần-thức người chết vãng-sinh Tây-Phương. Nếu người trợ-niệm
ít hoặc không có, thân-nhân hãy đến gần người sắp chết mà trợ-niệm. Nhớ
là đừng đứng ngay trước mặt vì ở thời điểm nầy người chết rất dễ động
tâm, trở ngại chánh-niệm. Do đó không nên để cho thấy mặt. Giọng
Niệm-Phật nhớ đừng bi-lụy vì sẽ khơi dậy tình-cảm nơi người chết, khó mà
vãng-sinh. Thân-nhân cần ghi nhớ hai điều nầy.
11. Sau khi người chết đã tắt thở nhưng thi-thể chưa lạnh hẳn
(nghĩa là thần-thức còn đó chưa đi), thân-nhân cần để ý các điều sau:
a. Vẫn tiếp-tuc lớn tiếng Niệm-Phật trợ-niệm.
b. Hãy coi chừng đừng để ruồi muỗi đậu lên thi-thể người chết vì họ vẫn còn cảm-giác!
c. Đừng khám-xét thi-thể để đoán xem đi về đâu vì làm vậy rất có hại cho người mất.
d. Nếu có ban Trợ-Niệm phải tuyệt-đối tuân theo sự hướng-dẫn của họ.
e. Tuyệt-đối đừng tin theo các hủ-tục phổ-thông của thế-gian. Xin nêu ra đây vài điều:
· Cho rằng khi thi-thể còn nóng, khớp xương còn mềm-mại, phải thay quần áo cho họ lúc nầy.
· Cho rằng khi người thân tắt thở cần phải khóc lớn để đẩy lui hung-tinh!
· Cho rằng hễ tắt thở là phải lo liệm ngay, nếu không sẽ mắc nợ “miên-sàng” v..v..
Chuyện Người Niệm Phật Vãng Sanh về Cực Lạc Thế Giới
A-Di-Đà Phật.
Kính chào chư vị Thượng Thiện, các bạn Liên Hữu, các bạn Đồng Tu, cùng Tất Cả!
Vì
muốn mọi người có lòng Tin Kiên Định nơi Pháp Môn Tịnh Độ mà Dharma sẽ
post những câu chuyện của Người Niệm Phật vãng sanh về cõi Cưc Lạc từ
xưa đến nay.
Chẳng những là muốn mọi người có lòng Tin Kiên Định
nơi Pháp Môn Tịnh Độ, mà còn muốn mọi người sao khi nghe qua đều phát
Tâm Bồ Đề, một lòng chí thành niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà và một
lòng thiết tha phát Đại Nguyện rộng lớn đem hồi hướng công đức đến pháp
giới chúng sanh đồng vãng sanh về cõi Cực Lạc.
Người đời nay tự
cho mình là thông minh "lỗi lạc" tu thiền, tu bát chánh đạo, v.v... phỉ
báng khinh chê người Tụng Kinh A-Di-Đà, Niệm danh hiệu của đức Phật
A-Di-Đà. Cho Tụng Niệm là mê tín. Nào ngờ chính họ đã bị thông minh ràng
buộc làm cho "lầm lạc" nên chẳng biết niệm phật, lại còn phỉ báng vướng
tội phỉ báng tam bảo đoạ lạc vào ác đạo.
Còn người Tụng Niệm bị
khinh chê kia thì thật sự được vãng sanh về cõi Cực Lạc, giải thoát
giác ngộ, vĩnh viễn lìa khổ được vui, vĩnh viên thoát ly tam giới, vĩnh
viễn không còn chiệu khổ sanh tử luân hồi, vĩnh viễn chẳng còn cách xa
đạo quả Vô Thượng Bồ Đề nửa!
Nhưng đức Phật thật là Đại Từ Đại Bi
thay! dù là kẻ khen hay chê, phỉ báng hay chẳng phỉ báng hễ nghe qua
danh hiệu của đức Phật A-Di-Đà tức thời gieo trồng hạt giống Bồ Đề cho
mai sao dù ngàn kiếp sao, vạn kiếp sao, cho đến vô lượng vô biên kiếp về
sao thì người ấy cũng được nhờ đã từng biết, đọc, thấy, nghe qua danh
hiệu của đức Phật A-Di-Đà đều được giải thoát!
Vì vậy Dharma
chẳng ngần ngạy lo sợ bị họ tuôn lời phỉ báng khinh chê, cũng chẳng sấu
hổ tụng Kinh A-Di-Đà, Niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà (ngược lại càn
hãnh diện vui mừng chẳng thể kể xiết khi được tự mình hoặc nghe người
khác tụng Kinh A-Di-Đà và niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà) mà phần đông
người người áp nhau cho Dharma là mê tín, con két, con vẹt, mái hát
cassette để post những câu chuyện của người niệm phật, tụng kinh A-Di-Đà
được vãng sanh về cõi Cực Lạc làm lợi lạc tất cả chúng sanh (tín luôn
họ).
Dharma vì chúng sanh có thể làm những con vẹt, con két,
v.v.. để mà tuyên lưu tiếng pháp âm nhiệm mầu hầu giúp chúng sanh cang
cường khó giáo hoá nầy được giải thoát yên vui.
Chư Đại Bồ Tát
như Địa Tạng, Quán Âm không ngại xã thân mình vào địa ngục, phân thân đủ
loại hình vì chúng sanh mà cứu khổ giáo hoá tất cả chúng sanh. Dharma
có làm con két, con vẹt cũng đâu có ngại gì! Miễn sao có thể khuyên
người nghe thấy đều phát tâm bồ đề, một lòng niệm phật cầu sanh Cực Lạc,
đồng sanh Cực Lạc, Tiến Tu giải thoát đến Diệu Giác Bồ Đề. Người phỉ
báng khinh chê cũng được gieo trồng hạt giống bồ đề, nhất định đời vị
lai được vì đó mà giải thoát.
Hơn nữa trong Kinh A-Di-Đà có dạy,
cõi Cực Lạc thường có các loại chim vi diệu như Bạch Hạc, Khổng Tước,
Anh Vỏ, Xá Lợi, Ca Lăng Tần Già, Cộng Mạng, "Ngày đêm sáu thời tuyên lưu
tiếng pháp".
Đó đều là do đức Phật A-Di-Đà vì muốn tuyên lưu tiếng pháp mà biến hoá ra "tuyên lưu biến hoá sở tác".
Nguyện đem công đức nầy
Trang nghiêm Phật Tịnh Độ
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu độ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Đều phát Tâm Bồ Đề
Hết một báo thân nầy
Cùng sanh cõi Cực lạc
Nguyện
hồi hướng công đức nầy đến "tất cả" các bạn cùng pháp giới "tất cả"
chúng sanh, đồng sanh Cực Lạc và đồng viên thành Phật Đạo.
Trích trong Kinh A-Di-Đà Sớ Sao của Liên Tông Bát Tổ Liên Trì Đại Sư.
Chánh
Văn: Kế nói sự lợi ích của người tụng kinh này như "cuống lưỡi không
hư, nhạc trời rước về Tịnh Ðộ", vừa giải oan, vừa vãng sanh. Tụng chưa
hết quyển mà ngồi tịch; về Cực Lạc như vào Thiền Ðịnh; khi chết thấy hoa
sen trắng, đài bạc đổi thành đài vàng, nhạc dở qua rồi, nhạc hay tiến
đến.
Chú Giải: “Cuống lưỡi không hư” là: Trong bộ Trí Ðộ Luận
nói: Có vị bí sô tụng kinh Di Ðà, khi sắp lâm chung nói với các đệ tử
rằng: "Có Phật A Di Ðà và các vị Thánh chúng đến rước ta kia". Sau khi
hỏa thiêu thân cháy mà cuống lưỡi không nám, sắc tướng tự nhiên.
"Nhạc
trời rước về Tịnh độ" là: Ðời Tống, ông Ðường Thế Lương tụng kinh Di Ðà
mười muôn biến. Một hôm bảo người nhà rằng: "Phật đến rước ta". Nói rồi
lạy Phật, ngồi mà qua đời. Ðêm ấy có người đi buôn, nghỉ trên núi Ðạo
Vị, nằm mộng thấy phương Tây có hào quang lạ và tràng phan, hương hoa
lăng xăng, tiếng nhạc véo von, trên không có tiếng kêu rằng: "Ông Ðường
Thế Lương đã sanh về Tịnh Ðộ".
"Vừa giải oan, vừa vãng sanh" là:
Ðời Tống đất Thượng Ngu có tên Phùng Mân, lúc trẻ ưa đi săn bắn, thấy
con rắn lớn, cầm nác (dao) muốn tới đâm. Lúc ấy con rắn ở dưới gộp đá
muốn mổ (cắn) con bò ghé (con). Ông Phùng Mân lăn đá trên gộp xuống đè
rắn đến chết. Rắn thường biến làm loài yêu quái để hại Phùng Mân. Nhưng
Phùng Mân nhờ tu pháp sám hối, niệm Phật nhiều năm, rắn không làm hại
đuợc. Một hôm Mân mời các bạn đồng tu trong hội "Tịnh Ðộ" tụng kinh Di
Ðà, rồi Mân chấp tay niệm Phật mà qua đời.
"Tụng chưa hết quyển
ngồi tịch" là: Ðời nhà Tần, có ngài Trí Tiên pháp sư hiệu Chơn Giáo ở
chùa Bạch Liên, ngài xây mặt về hướng Tây, tu pháp Thập Niệm 13 năm, một
ngày 12 thời, không tạm nghỉ.
Một hôm ngài hơi bệnh, bảo tên quán đường hành nhơn tụng kinh Di Ðà, tụng chưa hết quyển, ngài ngồi an nhiên mà qua đời.
“Về
Cực Lạc như vào Thiền định”: Ðời Tống ngài Thích Xử Khiêm tinh tấn tu
pháp Tịnh Ðộ, một hôm tụng kinh Di Ðà xong và khen ngợi pháp Tịnh Ðộ,
ngài bảo trong chúng rằng: “Ta dùng bản tánh vô sanh mà sanh về Tịnh
Ðộ”. Nói rồi ngài ngồi ngay thẳng như vào Thiền định, thoạt vậy mà tịch.
“Lúc
chết thấy hoa sen trắng”: Ðời Tống có bà Chung Ẩu người ở quận Gia Hòa,
mỗi ngày tụng mười biến kinh Di Ðà, niệm Phật không thôi. Một hôm bà
bảo các con rằng: "Ta thấy hoa sen trắng vô số, các vị thánh đến rước
ta". Bà nói vừa dứt lời liền ngồi ngay thẳng mà tắt thở.
“Ðài bạc
đổi đài vàng”: Ngài Hoài Ngọc Thiền sư, người ở đất Thai Châu, thân mặc
áo vải, mỗi ngày ăn một bữa, thường ngồi, không nằm, tinh tấn niệm
Phật. Ngài tụng 30 muôn biến kinh Di Ðà. Một hôm ngài thấy thánh chúng
bên Tây phương Tịnh Ðộ nhiều như số cát sông Hằng, có một vị tay bưng
đài bạc từ cửa sổ đi vào. Ngài Hoài Ngọc than rằng: "Suốt đời tôi tinh
tấn thề được đài vàng. Vì sao nay được cái nầy?" Nói thế đài bạc liền
mất. Ngài Hoài Ngọc quá cảm khích lại càng tinh tấn bội phần. 21 ngày
sau, thấy Phật đầy giữa hư không, ngài liền bảo đệ tử rằng: "Ðài vàng
đến rước ta sanh về Tịnh Ðộ". Rồi ngài nói bài kệ mỉm cười mà tịch. Quan
thái thú ở quận ấy tên Ðoàn Công lấy làm lạ, mới làm bài thi khen ngợi,
có câu: "Chi đê chỉ vị, quải kim đài" (157).
“Nhạc dở đi rồi,
nhạc hay tiếp đến”: Ðời Nguyên có ông Tử Hoa thiền sư, trong niên hiệu
Ðại Lịch năm thứ chín (158) ở chùa Quan Âm, tại đất Nhuận Châu, tụng
kinh Di Ðà ròng sáu tháng. Một hôm ngài cảm bệnh, đêm đó nghe mùi hương
và tiếng nhạc trên hư không có tiếng bảo rằng: "Nhạc dở qua rồi, nhạc
hay tiếp đến, người sẽ vãng sanh". Thế rồi ông niệm Phật giây lâu mà
tịch. Mùi hương lạ suốt ngày chưa tan.
000 OOO 000
Minh Triều, đất Cổ Hàng, Chùa Vân Thê, Liên Trì Đại Sư trước tác Kinh A-Di-Đà Sớ Sao. Trích đoạn người niệm Phật được vãng sanh:
Chánh
Văn: Nói sự linh nghiệm của người trì danh hiệu Phật hoặc một niệm
trong miệng bay ra một đạo hào quang, hoặc một tiếng trong miệng bay ra
một vị Phật, hoặc niệm vang động cả rừng, hang, hoặc tiếng niệm thấu đến
cung vua hoặc sáu thời kế tiếp niệm mà y báo, chánh báo đầy hư không,
hoặc gạch chữ thập để nêu tâm mà được thánh hiền vào hội, cho đến đời
nay có những danh lưu tiếp tục.
Chú Giải: Ðây chính là
nói rõ pháp tu chấp trì danh hiệu Phật vậy. Ðối với những bậc thánh hiền
tu Tịnh nghiệp thành tích rất nhiều, không thể thuật hết. Ở đây chỉ kể
lại một vài việc mà người đời đã được nghe thấy rõ ràng, để làm bằng hay
làm gương đặng khuyến khích.
"Niệm Phật bay ra hào quang" là đời Ðường có người hỏi ngài Thiện Ðạo đại sư rằng: “Niệm Phật có được sanh về Tịnh độ không?”
Ngài
đáp: “Cứ như ngươi sở niệm thế nào thì được toại sở nguyện cũng thế”.
Khi đó ngài Thiện Ðạo tự niệm một câu "A Di Ðà Phật" liền có một đạo hào
quang từ trong miệng bay ra. Ngài niệm luôn mười câu đến trăm câu hào
quang cũng vẫn cứ bay ra như vậy, thành ra cả nhà đầy hào quang. Nghe
được sự linh nghiệm ấy nhà vua sắc tứ cho chỗ ngài ở là "Quang Minh Tự".
Sau ngài lên cây liễu ngồi ngay thẳng mà tịch.
"Niệm Phật bay ra
vị Phật" là ngài Thiếu Khương pháp sư ở núi Ô Long, kiến thiết đạo
tràng Tịnh Ðộ, khuyên người niệm Phật. Trong chúng thấy ngài niệm Phật
một tiếng, trong miệng bay ra một vị Phật sáng, cho đến mười tiếng niệm,
đều có đủ mười vị Phật thứ lớp bay ra như xâu chuỗi. Ðến ngày lâm chung
có mấy đạo hào quang đoanh quanh nơi miệng, thoạt vậy mà tịch (162).
"Tiếng
niệm Phật vang động cả rừng, hang" là đời Ðường, ngài Ðạo Xước Thiền
sư, thường ngày vì trong chúng giảng kinh Vô Lượng Thọ gần 200 biến. Mỗi
người tay lần chuỗi, miệng niệm danh hiệu Phật; khi tan hội, mà tiếng
niệm còn vang động cả khu rừng.
"Tiếng niệm Phật thấu đến cung
vua" là đời Ðường ngài Pháp Chiếu ở đất Tinh Châu lập 5 hội niệm Phật,
cảm đến hoàng đế Ðại Tông ở đất trong cung nghe tiếng niệm Phật, vua
liền sai sứ đi tìm. Thấy sư khuyến hóa người niệm Phật rất thạnh hành,
vua liền mời vào cung. Những người ở trong cung nhờ Sư dạy niệm Phật
cũng đến năm hội; vua phong hiệu Sư là "Ngũ Hội Pháp Sư".
"Sáu
thời kế niệm" là đời Tấn, ngài Huệ Viễn pháp sư ở Lô Sơn, chế tạo cái
đồng hồ bằng hoa sen để phân giờ tu niệm sáu thời niệm Phật (163), lắng
lòng nối tưởng; 19 năm sau, đến đêm 30 tháng 7, ở trong nhà Bát Nhã đang
ngồi thiền định vừa đứng dậy, thấy thân Phật A Di Ðà đầy cả hư không.
Trong hào quang bóng tròn có vô lượng hóa Phật và các chúng Bồ Tát; nước
chảy, hào quang đều diễn nói pháp mầu.
Phật nói: “Ta do sức bản
nguyện đến an ủi ngươi, bảy ngày nữa ngươi sẽ sanh về nước ta”. Ðúng
ngày nói trên, Sư ngồi ngay thẳng mà qua đời.
"Gạch chữ thập để
nêu tâm" là đời Tống, ngài Tông Trách Thiền sư ở chùa Trường Lô, tỏ ngộ
lý Thiền, Tông, Thuyết gồm thông (164) mà vưng theo qui củ ngài Viễn Tổ ở
non Khuôn Lư, lập Liên Hoa thắng hội. Kỷ luật hội đó: mỗi ngày niệm
Phật A Di Ðà, hoặc một ngàn tiếng, muôn tiếng chẳng hạn, cứ đến mặt trời
lặn thì gạch tréo chữ Thập để ghi nhớ (165). Một hôm nằm mộng, ngài
thấy một cậu trai, đầu bịt khăn đen, mặc áo trắng, dung mạo thanh bai,
đến bảo ngài Lô Trách rằng: “Tôi muốn vào hội Di Ðà của ông, xin ông ghi
cho một tên”. Ngài Lô Trách hỏI: “Ông tên chi?” Người ấy đáp: “Tôi tên
Phổ Huệ”; rồi lại nói: “Anh tôi tên Phổ Hiền cũng xin đăng tên”. Nói rồi
liền ẩn mất. Ngài Lô Trách thức dậy thuật lại điềm chiêm bao, các vị
tôn túc đều nói rằng: “Trong kinh Hoa Nghiêm về phẩm Ly Thế Gian có hai
tên vị Bồ Tát ấy”; mới biết thánh hiền thầm giúp. Ngài liền ghi tên hai
vị đại sĩ ấy vào đầu sổ (tiêu biểu hai vị hội trưởng của hội niệm Phật).
"Chiêu
đại” là đời nay vậy, như ngài Tây Trai, ngài Không Cốc, ngài Thiên Kỳ,
ngài Ðộc Phong (166) v.v... Các ngài đây đều là bậc cao tăng đời nay,
dốc tín; tinh tu, sánh với cái lành đời trước, nối nhau không dứt, đều
chép rõ trong tập Vãng Sanh.
Số là trong ngàn muôn truyện, chỉ ghi chép lại một vài truyện thôi.
000 OOO 000
Chánh
Văn: Lại nữa, người ác siêu là như ông Trương Thiện Hòa niệm mười tiếng
Phật, tướng địa ngục hiện trước mắt liền tiêu mà được hóa, Phật rước ở
giữa hư không.
Loài súc sanh như chim cù dục xưng danh hiệu Phật
mà hình hài chôn rồi, sau trên mộ mọc hoa sen. Huống chi là thân người
không tội ác mấy! Và được phước báu gọi là tối linh; thêm đủ Tín và
Nguyện đều tu; đâu thành luống bỏ.
Chú Giải: "Người ác"
là đời Ðường có ông Trương Thiện Hòa làm nghề hàng trâu, khi sắp chết,
thấy bầy trâu đến đòi thường mạng cho nó. Lúc ấy ông hoảng sợ, kêu vợ
nói: “Mau rước thầy niệm Phật cho tôi”. Nhà sư đến dạy rằng: “Trong kinh
nói, khi lâm chung tướng ác (168) hiện ra, nên chí tâm niệm Phật thì sẽ
được vãng sanh”.
Ông Trương Thiện Hoà nói: “Ðịa ngục đến gấp,
mau đem lư hương đây!” Rồi tay hữu bưng lửa, tay tả cầm hương đốt, day
mặt về hướng Tây, chuyên thiết niệm Phật, chưa đầy 10 tiếng, ông tự nói:
“Phật đến rước ta”; dứt lời liền tắt thở.
"Loài súc sanh niệm
Phật" là đời Tống, tại non Huỳnh Nham, chùa Chánh Ðẳng, sư cụ Quán Công
nuôi chim cù dục (sáo). Ngài thường dạy nó niệm Phật không ngớt. Mới hôm
đứng chết trong ***g. Ngài Quán Công thương xót đem chôn. Sau trên mộ
nó mọc lên đóa sen hồng. Ðào đất xem thử thì hoa sen ấy từ trong chót
lưỡi của chim cù dục mọc ra (loài sáo trâu: Toàn sắc đen, khi bay cánh
nó điểm trắng).
Ngài Linh Chi Chiếu luật sư làm bài thi khen ngợi, có câu:
"Chim ***g giam hãm không chi lạ;
Ðứng chết, mọc sen mới rất kỳ" ! (169)
Như
trên đây đã thuật lại những sự tích trì danh niệm Phật. Từ sự tích:
Niệm Phật trong miệng bay ra hào quang và trong miệng bay ra vị Phật,
đến đây số là cũng trong muôn ngàn sự tích mà nay chỉ biên có một vài
truyện thôi.
Chữ "Thắc" nghĩa là cái ác còn giấu ở trong tâm khảm.
Chữ "tối linh" là nói loài người khôn ngoan hơn muôn loài (170).
Sau
rốt kết luận rằng: Người ác niệm Phật còn được vãng sanh, huống chi cái
ác chưa ắt bằng như ông Trương Thiện Hòa và súc sanh niệm Phật còn được
vãng sanh thay, huống chi hạng tối linh mà gọi là nhân loại. Lấy đó so
sánh, biết chắc là niệm Phật được vãng sanh, vậy quyết chắc rằng người
niệm Phật, mà hẳn có cả Tín và Nguyện gồm tu thì chỗ làm đâu có hư hỏng!
000 OOO 000
Trích trong Niệm Phật Thập Yếu của Tịnh nghiệp đệ tử Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính kết tập:
2. Thiên chúng đến đón chẳng đi
*
Ðại sư Tăng Tạng đời Ðường, người xứ Tây Hà. Tuổi nhỏ xuất gia, nép
mình thờ người, hết thảy cung kính, chẳng từ lao khổ. Thấy tăng y của
người khác liền giặt giũ giùm, rồi lại vá chằm. Ngày nắng gắt, sư cởi áo
ngồi trong đám cỏ để thí máu thịt cho các loài muỗi, ve.
Hằng
ngày, ngài niệm Phật hiệu chẳng cần ghi số, chỉ nhớ rõ trong tâm, chưa
hề thiếu sót. Ðến khi báo tận, thấy chư thiên theo thứ tự đến đón, ngài
đều chẳng theo. Ngài chợt bảo mọi người:
- Vừa về Tịnh Ðộ, thấy các thượng thiện nhân rải hoa trên không.
Rồi chắp tay niệm Phật mà hóa.
(theo Cao Tăng Truyện, tập 3)
*
Ðại sư Thiện Ngang đời Ðường, người Ngụy Quận. Chí kết Tây Phương,
nguyện sanh An Dưỡng. Sau ngài ngụ tại chùa Báo Ứng, biết đã đến lúc bèn
bảo trước những người hữu duyên: đầu tháng Tám sẽ chia tay. Ðến kỳ,
ngài lên tòa cao, lư tỏa mùi hương lạ, dẫn tứ chúng thọ Bồ Tát giới, dạy
dỗ những điều thiết yếu. Chợt thấy thiên chúng rộn ràng, đàn sáo véo
von. Ngài bảo đại chúng:
- Trời Ðâu Suất Ðà đến đón ta; nhưng
Thiên đạo chính là căn bản sanh tử, chẳng phải chỗ ta ước mong. Lòng
thường mong sanh về Tịnh Ðộ, nguyện này chẳng được thỏa hay sao?
Nhạc
trời bỗng bặt tiếng. Từ trời Tây, hương, hoa, âm nhạc vùn vụt kéo đến,
xoay quanh trên đỉnh đầu, toàn thể mọi người đều thấy. Sư bảo:
- Nay tướng lành Tây Phương đến đón. Ta đi đây.
Nói xong liền tịch, thọ sáu mươi chín tuổi.
(theo Cao Tăng Truyện, tập hai)
Nhận định:
Lúc
lâm chung, tứ đại chia lìa là lúc nào vậy? Chư Thiên lần lượt đến đón
là cảnh nào đây? Nếu chẳng phải là bậc tín nguyện kiên cố thì ngay trong
lúc đó, đối trước cảnh ấy làm sao cưỡng làm chủ tể nổi? Ðây đúng thật
là gương sáng thiên cổ cho những kẻ tu Tịnh nghiệp vậy. Nếu không, một
phen sanh lên trời sẽ lại đọa trong luân hồi. Xin đừng lầm tin ngoại đạo
cầu sanh Thiên Quốc.
000 OOO 000
Trích trong Niệm Phật Thập Yếu của Tịnh nghiệp đệ tử Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính kết tập:
5. Lấy việc lợi lạc chúng sanh làm đầu
Ðại
sư Tự Giác đời Ðường, người xứ Bác Lăng. Xuất gia từ nhỏ, học Kinh,
Luật, Luận siêng năng suốt cả chín năm, kinh luận nào cũng đều hiểu sâu
sắc. Sau ngài trụ tại Trùng Lâm Sơn Viện trong núi Bình, nhặt quả, hái
rau, ngày chỉ ăn một bữa, phát tâm đúc tượng đức Ðại Bi Quán Âm và dựng
chùa Phật.
Gặp lúc đại hạn, tiết độ sứ xứ Hằng Dương là ông
Trương thỉnh ngài cầu mưa. Ngài kiền thành khẩn cáo long thần, mưa to
liền đổ xuống. Do đó, thí chủ chen nhau tụ về, đúc được tượng cao bốn
mươi sáu thước, chùa cũng dựng xong.
Ngài liền đối trước đàn,
thệ nguyện nương nhờ Thánh lực sớm sanh Tịnh Ðộ. Chợt thấy hai đạo kim
quang: A Di Ðà Phật và hai vị Ðại Sĩ từ trong quang minh giáng xuống,
xòe tay sắc vàng xoa đầu sư, bảo:
- Giữ nguyện chẳng đổi, lấy việc lợi sanh làm đầu. Sanh chốn ao báu mặc tình thỏa nguyện.
Về sau, chợt thấy thần nhân đứng trong mây hiện nửa thân, bảo:
- Thời kỳ sư quy Tây đã đến rồi!
Ngài liền ngồi xếp bằng trước tượng Quán Âm mà hóa.
(theo Cao Tăng Truyện, quyển 3)
Nhận định:
Phàm
những việc như: tạo tượng, lập chùa, cầu mưa lợi người v.v… đều là
những trợ duyên cho Tịnh nghiệp. Ðem những việc ấy hồi hướng Tây Phương.
Do làm được như vậy nên Phật dạy: “Giữ nguyện chẳng đổi, lấy việc lợi
sanh làm đầu”. Nếu như ngài chẳng có mật hạnh niệm Phật, làm sao cảm
được đức Phật đến xoa đầu?
000 ooo 000
10. Kết xã khích lệ lẫn nhau
Ðại
sư Tạo Vi Tỉnh Thường đời Tống là Tổ thứ bảy của Liên Tông. Ngài họ
Nhan, người huyện Tiền Ðường. Bảy tuổi xuất gia, mười bảy tuổi thọ Cụ
Túc Giới. Ngài lấy việc kiên trì giới luật, chuyên xưng danh hiệu, phát
Bồ Ðề tâm, kết xã để khích lệ lẫn nhau làm chánh nhân Tịnh Ðộ.
Ngài
trụ tại chùa Chiêu Khánh ở Hàng Châu, hâm mộ di phong Lô Sơn của Tổ Huệ
Viễn nên thành lập Tịnh Hạnh Xã. Trong nhóm sĩ phu dự hội có quan Tướng
Quốc Văn Chánh Vương Công Ðán v.v… một trăm hai mươi người đều xưng là
Tịnh Hạnh Ðệ Tử, còn Tăng thì có đến một ngàn vị đồng tu Tịnh nghiệp.
Ngài
cắt máu chép kinh phẩm Tịnh Hạnh của kinh Hoa Nghiêm. Mỗi ngày chép một
chữ, ba lạy, nhiễu ba vòng, ba lượt xưng danh hiệu Phật. Chép được ngàn
quyển, thí cho ngàn người. Ngài dùng chiên đàn hương khắc tượng Phật Vô
Lượng Thọ, quỳ trước tượng, phát nguyện:
- Con cùng đại chúng
bắt đầu từ ngày hôm nay trở đi phát Bồ Ðề tâm. Cho đến cùng tột đời vị
lai, hành hạnh Bồ Tát. Nguyện hết một báo thân này sẽ sanh An Dưỡng
Một
hôm, trong lúc ngồi nghiêm trang niệm Phật, ngài chợt kêu to: “Phật đến
rồi!”, tự nhiên hóa. Ðại chúng thấy đất đều có màu vàng ròng. Sư thọ
sáu mươi hai tuổi.
(Theo Phật Tổ Thống Ký)
Nhận định:
Kết
xã khích lệ lẫn nhau đúng là tự lợi, lợi tha. Nhưng để thực hành được
điều này trong hiện tại, phải có bậc hữu đức thống suất đại chúng cộng
tu, rất kỵ nam nữ hỗn tạp. Nếu không có được cơ duyên như vậy thì chẳng
bằng đóng cửa tiềm tu, so ra còn dễ tinh tấn hơn!
000 ooo 000
15. Chuyên tâm niệm Phật
Ðại
sư Hám Sơn Trừng Ấn Ðức Thanh đời Minh, là con nhà họ Thái ở Kim Lăng.
Năm mười chín tuổi xuất gia, chuyên tâm niệm Phật, mộng thấy Phật A Di
Ðà hiện thân trên không, quang tướng phân minh.
Từ đấy, thánh
tượng sáng rực rỡ luôn hiện diện trước mắt ngài. Sau ngài đến Ngũ Ðài tu
Ðịnh, phát minh được bổn tâm sẵn có. Ngài cắt máu chép kinh Hoa Nghiêm,
mỗi một nét bút hạ xuống là một câu niệm Phật. Lâu dần, động tịnh hệt
như nhau.
Sau ngài ẩn cư trong Lao Sơn là chỗ bọn ngoại đạo sanh
sống. Thoạt đầu, chẳng có ai nghe đến danh hiệu Tam Bảo, nhưng lâu sau,
ai nấy đều biết niệm Phật. Lý Thái Hậu hạ lệnh chở vàng đến dựng chùa,
ban tấm biển đề tên chùa là Hải Ấn. Vua giận dữ, sai đầy ngài đi Lôi
Châu. Nhân đấy, ngài trùng hưng tổ đình Tào Khê.
Về sau, ngài
được vua hạ chiếu tha cho về, bèn kết am trong Lô Sơn, tu Tịnh Nghiệp
càng thêm chuyên gắng. Ngài đột ngột đi về Tào Khê, thị hiện bịnh nhẹ,
tắm gội, thắp hương, bảo đồ chúng rằng:
- Hãy nghĩ tới việc lớn sanh tử, vô thường mau chóng.
Ðoan tọa mà tịch, có quang minh chiếu rực tận trời, thọ bảy mươi tám tuổi, nhục thân hiện vẫn còn.
(theo Mộng Du Tập)
Nhận định:
Thánh
tượng thường hiện, động tịnh nhất như thì đúng là tu hành Tịnh Nghiệp
thật tinh cần. Vì chẳng chứng đắc chút ít đã cho là đủ nên nhục thân của
ngài tồn tại vĩnh viễn. Xét ra, ắt ngài phải sanh trong Thượng Phẩm
Thượng Sanh nơi Thật Báo Tịnh Ðộ hoặc Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ trong
thế giới Cực Lạc.
16. Bỏ Thiền tu Tịnh
Ðại sư Ngẫu
Ích Trí Húc đời Thanh là Tổ thứ chín của Liên Tông. Ngài họ Chung, người
Ngô Huyện. Lúc tuổi trẻ, tự lấy việc học Nho làm trách nhiệm, viết sách
bác Phật. Ðến khi ngài đọc được tác phẩm Trúc Song Tùy Bút của tổ Vân
Thê bèn đốt những sách mình đã viết.
Năm hai mươi tuổi, nhân đọc
kinh Ðịa Tạng bèn phát chí xuất thế, hằng ngày tụng danh hiệu Phật. Năm
hai mươi bốn tuổi, nghe pháp sư Cổ Ðức giảng kinh, nghi tình chợt phát,
dụng tâm tham cứu, chứng ngộ rỗng rang. Ngài liền bế quan ẩn tu ở Ngô
Giang. Bị bịnh gần chết, ngài mới nhất ý cầu sanh Tịnh Ðộ.
Lúc
bịnh giảm chút ít, ngài bèn kết đàn trì chú Vãng Sanh bảy ngày. Sau đấy,
ngài ẩn tu tại Linh Phong, trước thuật những tác phẩm xiển dương Tịnh
Ðộ được lưu truyền rộng rãi.
Ngài chợt thị hiện có bịnh, dặn dò
sau khi trà tỳ hãy đem tro ngài hòa với bột đem thí cho các loài chim,
cá để chúng được kết duyên Tây Phương. Sau đó, khi bịnh đã khỏi hẳn,
ngài bèn ngồi xếp bằng, hướng về Tây, giơ tay lên mà tịch, thọ năm mươi
bảy tuổi.
Ba năm sau, mở khám đựng nhục thân của ngài ra, tóc đã
mọc dài phủ tai, vẻ mặt vẫn như lúc sống; môn nhân chẳng nỡ tuân theo
di mạng nên lập tháp thờ ở Linh Phong.
(theo Linh Phong Tông Luận)
Nhận định:
Gặp lúc bịnh gần chết mới bỏ Thiền tu Tịnh. Sách Niệm Phật Trực Chỉ viết:
“Tinh
tấn là chẳng vì chút bịnh duyên nhỏ hay lớn mà biếng nhác cái hạnh. Nếu
như bị túc nghiệp sai sử thì nên tụng Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn
Bản Ðắc Sanh Tịnh Ðộ Ðà Ra Ni. Trì một lần, diệt được tất cả các tội:
ngũ nghịch, thập ác nơi thân. Trì được ba mươi vạn biến, quyết sẽ sanh
về Tịnh Ðộ”.
Kinh Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Ðắc Sanh Tịnh Ðộ Thần Chú có nói:
“Nếu
tụng được chú này thì A Di Ðà Phật thường ngự trên đảnh người ấy, ngày
đêm ủng hộ chẳng để cho oán gia có dịp hãm hại. Hiện đời thường được an
ổn; lúc mạng sắp hết, tùy ý vãng sanh”.
Vì thế, lúc ngài vừa bớt
bịnh liền kết thất trì chú bảy ngày. Những người ham Thiền Tịnh Song Tu
hãy bắt chước ngài lấy việc chuyên tu làm trọng.
000 ooo 000
15. Chuyên tâm niệm Phật
Ðại
sư Hám Sơn Trừng Ấn Ðức Thanh đời Minh, là con nhà họ Thái ở Kim Lăng.
Năm mười chín tuổi xuất gia, chuyên tâm niệm Phật, mộng thấy Phật A Di
Ðà hiện thân trên không, quang tướng phân minh.
Từ đấy, thánh
tượng sáng rực rỡ luôn hiện diện trước mắt ngài. Sau ngài đến Ngũ Ðài tu
Ðịnh, phát minh được bổn tâm sẵn có. Ngài cắt máu chép kinh Hoa Nghiêm,
mỗi một nét bút hạ xuống là một câu niệm Phật. Lâu dần, động tịnh hệt
như nhau.
Sau ngài ẩn cư trong Lao Sơn là chỗ bọn ngoại đạo sanh
sống. Thoạt đầu, chẳng có ai nghe đến danh hiệu Tam Bảo, nhưng lâu sau,
ai nấy đều biết niệm Phật. Lý Thái Hậu hạ lệnh chở vàng đến dựng chùa,
ban tấm biển đề tên chùa là Hải Ấn. Vua giận dữ, sai đầy ngài đi Lôi
Châu. Nhân đấy, ngài trùng hưng tổ đình Tào Khê.
Về sau, ngài
được vua hạ chiếu tha cho về, bèn kết am trong Lô Sơn, tu Tịnh Nghiệp
càng thêm chuyên gắng. Ngài đột ngột đi về Tào Khê, thị hiện bịnh nhẹ,
tắm gội, thắp hương, bảo đồ chúng rằng:
- Hãy nghĩ tới việc lớn sanh tử, vô thường mau chóng.
Ðoan tọa mà tịch, có quang minh chiếu rực tận trời, thọ bảy mươi tám tuổi, nhục thân hiện vẫn còn.
(theo Mộng Du Tập)
Nhận định:
Thánh
tượng thường hiện, động tịnh nhất như thì đúng là tu hành Tịnh Nghiệp
thật tinh cần. Vì chẳng chứng đắc chút ít đã cho là đủ nên nhục thân của
ngài tồn tại vĩnh viễn. Xét ra, ắt ngài phải sanh trong Thượng Phẩm
Thượng Sanh nơi Thật Báo Tịnh Ðộ hoặc Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ trong
thế giới Cực Lạc.
16. Bỏ Thiền tu Tịnh
Ðại sư Ngẫu
Ích Trí Húc đời Thanh là Tổ thứ chín của Liên Tông. Ngài họ Chung, người
Ngô Huyện. Lúc tuổi trẻ, tự lấy việc học Nho làm trách nhiệm, viết sách
bác Phật. Ðến khi ngài đọc được tác phẩm Trúc Song Tùy Bút của tổ Vân
Thê bèn đốt những sách mình đã viết.
Năm hai mươi tuổi, nhân đọc
kinh Ðịa Tạng bèn phát chí xuất thế, hằng ngày tụng danh hiệu Phật. Năm
hai mươi bốn tuổi, nghe pháp sư Cổ Ðức giảng kinh, nghi tình chợt phát,
dụng tâm tham cứu, chứng ngộ rỗng rang. Ngài liền bế quan ẩn tu ở Ngô
Giang. Bị bịnh gần chết, ngài mới nhất ý cầu sanh Tịnh Ðộ.
Lúc
bịnh giảm chút ít, ngài bèn kết đàn trì chú Vãng Sanh bảy ngày. Sau đấy,
ngài ẩn tu tại Linh Phong, trước thuật những tác phẩm xiển dương Tịnh
Ðộ được lưu truyền rộng rãi.
Ngài chợt thị hiện có bịnh, dặn dò
sau khi trà tỳ hãy đem tro ngài hòa với bột đem thí cho các loài chim,
cá để chúng được kết duyên Tây Phương. Sau đó, khi bịnh đã khỏi hẳn,
ngài bèn ngồi xếp bằng, hướng về Tây, giơ tay lên mà tịch, thọ năm mươi
bảy tuổi.
Ba năm sau, mở khám đựng nhục thân của ngài ra, tóc đã
mọc dài phủ tai, vẻ mặt vẫn như lúc sống; môn nhân chẳng nỡ tuân theo
di mạng nên lập tháp thờ ở Linh Phong.
(theo Linh Phong Tông Luận)
Nhận định:
Gặp lúc bịnh gần chết mới bỏ Thiền tu Tịnh. Sách Niệm Phật Trực Chỉ viết:
“Tinh
tấn là chẳng vì chút bịnh duyên nhỏ hay lớn mà biếng nhác cái hạnh. Nếu
như bị túc nghiệp sai sử thì nên tụng Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn
Bản Ðắc Sanh Tịnh Ðộ Ðà Ra Ni. Trì một lần, diệt được tất cả các tội:
ngũ nghịch, thập ác nơi thân. Trì được ba mươi vạn biến, quyết sẽ sanh
về Tịnh Ðộ”.
Kinh Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Ðắc Sanh Tịnh Ðộ Thần Chú có nói:
“Nếu
tụng được chú này thì A Di Ðà Phật thường ngự trên đảnh người ấy, ngày
đêm ủng hộ chẳng để cho oán gia có dịp hãm hại. Hiện đời thường được an
ổn; lúc mạng sắp hết, tùy ý vãng sanh”.
Vì thế, lúc ngài vừa bớt
bịnh liền kết thất trì chú bảy ngày. Những người ham Thiền Tịnh Song Tu
hãy bắt chước ngài lấy việc chuyên tu làm trọng.
26. Làm việc nặng vẫn niệm Phật không gián đoạn
Ðại
sư Cụ Hạnh Nhật Biện thời Dân Quốc, người huyện Hội Lý ở Vân Nam. Mồ
côi cha mẹ từ nhỏ, phải đi ở rể nhà họ Tăng ở Diêm Nguyên, sanh được hai
con trai. Nhà nghèo, ngài phải làm thuê cho Chúc Thánh ở núi Kê Túc.
Năm hai mươi mốt tuổi, ngài dẫn cả nhà tám người xin đi xuất gia, thọ Cụ
Túc.
Hòa Thượng Hư Vân dạy ngài tu pháp môn Niệm Phật Cầu Sanh
Tịnh Ðộ. Ngài bèn dứt bỏ các duyên, nhất tâm hệ niệm. Ngài tai điếc, mặt
mũi xấu xí, không biết chữ, ngày trồng rau, đêm lễ bái, niệm Quán Thế
Âm Bồ Tát.
Rảnh rỗi thì tập tịnh tọa, học khóa tụng và các kinh
điển, tự siêng gắng hết sức. Sư vừa đi tham bái tứ đại danh sơn trở về
đất Ðiền (Vân Nam), gặp lúc ngài Hư Vân trùng hưng chùa Vân Thê, hỏi:
- Thầy đã đi thăm quyến thuộc chưa?
Sư thưa:
- Con chẳng bận tâm đến họ.
Hòa Thượng lại hỏi:
- Thầy tính làm gì?
Thưa:
- Những việc nặng nhọc nhất không ai chịu nổi, con sẽ gánh vác.
Phàm
là những việc nặng như đắp tường, lợp nhà, trồng rau, trồng cây, vác
đá, đào đất, quét tước, nấu nướng, ngài đều làm không lúc nào ngơi tay,
nhưng không một khắc nào để câu niệm Phật bị gián đoạn.
Khi đêm
xuống, vào lúc chỉ tịnh, ngài bèn lễ các kinh Kim Cang, Dược Sư, các
kinh Tịnh Ðộ; cứ một chữ là một lạy. Tảng sáng, hồng chung vừa gióng, đã
lên điện tham dự khóa tụng như thường, chưa hề ngủ nghỉ. Ngài tự vá áo,
hoặc chằm vá áo giùm bạn đồng tham, mỗi một mũi kim là một câu Phật
hiệu.
Trong kỳ hạn kết giới, được thỉnh làm Tôn Chứng, ngài bèn
bán y, đem hết tiền mua sắm vật dụng để thiết trai cúng dường đại chúng.
Hỏi ngài sẽ đi đâu, chỉ cười không nói. Giới đàn hoàn tất, ngài ngầm
lên điện sau cùng, ngồi xếp bằng, hướng về Tây niệm Phật, dùng lửa tự
thiêu, thọ ba mươi sáu tuổi. Hình trạng vẫn như lúc sống, mùi hương lạ
lan tận ra xa.
Ðại chúng tranh nhau đến xem, vừa đánh khánh, di thể ngài chợt sụp xuống, hóa thành tro.
(theo Hư Vân Hòa Thượng Niên Phổ)
Nhận định:
Một
chữ chẳng biết, nhưng lúc làm công việc nặng nhọc chưa hề gián đoạn
niệm Phật. Chúng ta là những kẻ biết chữ đọc được sách, nếu cứ lơi là để
uổng phí ngày tháng trôi qua há chẳng biết thẹn chăng?
Nhưng tự
thiêu là chưa đắc tam muội. Chớ nên manh nha vọng niệm như vậy để khỏi
bị ma dựa phát cuồng, vĩnh viễn đọa trong ác đạo!
29. Xả Quán niệm Phật
Ðại
sư Huệ Tam Tư Nguyên thời Dân Quốc, người huyện Uyển Bình tỉnh Hà Bắc.
Năm mười bảy tuổi xuất gia. Ít lâu sau, thọ Cụ Túc, vào học trường Phật
Giáo Học Hiệu tại tỉnh An Huy, nghiên cứu tinh tường nội điển.
Ngài
nhận trách nhiệm trụ trì chùa Sùng Thọ và Quảng Thiện ở Bắc Kinh. Ngài
kiến lập, hưng khởi đạo tràng Hoa Nghiêm. Trước giờ Ngọ mỗi ngày, ngài
tụng kinh Hoa Nghiêm. Cuối năm, ngài kết Hoa Nghiêm Phật Thất, lãnh đạo
đại chúng huân tu pháp Chơn Không Pháp Giới Quán; từng đốn nhập Pháp
Giới Ðịnh. Sau khi khai tịnh, mới ngộ được hư không pháp giới lý sự vô
ngại, pháp hỷ tràn đầy, khen là chưa từng có.
Từ đấy, ngài càng
thêm tinh tấn, tu Quán chẳng lùi. Tháng Mười Một năm Dân Quốc thứ ba
mươi bảy (1948), ngài đến Ðài Loan lúc bốn mươi tám tuổi, lãnh trọng
trách giảng dạy tại Phật Học Viện chùa Viên Quang ở Trung Lịch. Năm sau,
ngài đến Sở Giảng Dạy Học Tập Phật Học ở Tân Trúc giảng dạy Phật giáo,
đồng thời giảng kinh ở chùa Nhất Ðồng suốt bảy năm.
Sư thường
sống tại các chùa ở Ðài Bắc, Nội Hồ, Nam Ðầu… để giảng kinh, độ chúng
không đếm nổi. Năm năm mươi lăm tuổi, ngài sáng lập chùa Phước Huệ trên
núi Linh Sơn ở xã Thọ Lâm, Ðài Bắc. Mỗi năm, vào tháng Bảy, ngài lập
pháp hội Ðịa Tạng kéo dài bảy ngày, truyền U Minh Giới một lần. Mỗi năm,
tại Ðài Loan, khi truyền tam đàn đại giới và giới tại gia, sư thường
được suy cử vào một trong tam sư. Cả cõi âm lẫn dương gian đều được lợi,
pháp hóa lợi ích vô cùng!
Năm sáu mươi sáu tuổi, sư lại càng
thêm thường tinh tấn, hằng khóa niệm Phật mỗi ngày là ba vạn câu. Năm
tám mươi tuổi liền bắt đầu niệm Phật, tọa thiền cộng tu, và khởi xướng
nghĩa chẩn cứu dân nghèo và thí thuốc trong khuôn viên nhà chùa; sáng
lập thư viện để mọi người đến đọc sách; đề xướng, lo liệu việc giảng
giải, học hỏi Phật học. Hạnh lẫn giải càng thêm sâu, phước huệ song tu.
Sư
từng đáp ứng lời thỉnh sang Mỹ hoằng pháp, qua Ðại Hàn truyền giới,
người thọ giới lên đến hơn năm ngàn người. Giữa trưa ngày mồng Tám tháng
Bảy năm Dân Quốc 75 (1986), sau khi dùng cơm, sư chợt nói:
- Ta muốn đi đây!
Liền triệu tập tất cả đệ tử trong chùa, dặn dò:
- Sau khi ta mất, các con nên hợp tác với nhau.
Sau bữa cơm chiều, ngài không bịnh gì, đang đứng mà hóa, thọ tám mươi sáu tuổi.
(theo tạp chí Từ Vân số 126)
Nhận định:
Ðại
Sư mỗi ngày tụng kinh Hoa Nghiêm, tu Chơn Không Quán, từng nhập Pháp
Giới Ðịnh, từ đấy tu Quán chẳng lui sụt. Ðến năm sáu mươi tuổi, bắt đầu
mỗi ngày hằng khóa niệm Phật ba vạn tiếng; đấy là bỏ Quán niệm Phật.
Từ
năm tám mươi tuổi trở đi, chợt lại tọa Thiền, niệm Phật cộng tu. Ðấy là
tuổi già tịnh tọa niệm Phật, chứ chẳng phải là Thiền Tịnh Song Tu.
Không bịnh, đang đứng mà hóa, nhất định phải là Thượng Phẩm Thượng Sanh.
000 ooo 000
65. Chuyên cầu thoát khổ
Thời
Dân Quốc, một người phụ nữ nghèo ở huyện Từ Khê tỉnh Triết Giang, không
biết họ, nhà nghèo, con ngỗ nghịch. Một ngày nọ bị con mắng nhiếc, tâm
đau đớn, khó nhẫn, đến than thở với vị Tăng ở gần nhà. Vị Tăng bảo:
- Bà đã biết khổ; sao chẳng đem cái khổ ấy bán đi?
Hỏi:
- Làm sao bán được đây?
Tăng bảo:
-
Bà chuyên niệm A Di Ðà Phật cầu sanh Tây Phương. Lâm chung Phật đến
tiếp dẫn đi thì vĩnh viễn thoát khỏi các nỗi khổ, chỉ hưởng các sự vui.
Ðấy là bán khổ đi đó!
Bà nói:
- Mẹ con tôi sống chung
một phòng. Giường và bếp kê chung một chỗ. Dưới gầm giường có chuồng
heo. Bẩn thỉu như vậy làm sao niệm Phật được?
Tăng bảo:
- Không hề chi, bà sống tại gia thì chỉ cốt sao thường niệm, lúc rảnh có thể đến chùa lễ Phật.
Bà
liền phụng hành đúng như lời dạy, chuyên cầu thoát khổ, niệm Phật không
gián đoạn. Ba năm sau, trước lúc sắp lâm chung vài tháng, bà nói trước
với con:
- Ngày tháng đó ta sẽ sanh Tây Phương. Ngươi đừng có đi ra ngoài, vì ta lo liệu hậu sự để trọn đạo làm con.
Người
con chẳng tin; ít lâu sau, bà nhắc lại cũng chẳng tin. Vài ngày trước
khi mất, chợt ngửi thấy mùi hương lạ, tìm khắp nơi chẳng biết từ đâu ra,
mới tin lời mẹ là thật. Ðến kỳ, cả nhà trông chừng, thấy mẹ tắm gội,
thay áo, ngồi ngay ngắn niệm Phật qua đời.
(theo Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục)
Nhận định:
Dùng
cái tâm sợ khổ để niệm Phật là pháp mầu nhiệm bậc nhất để thoát khổ.
Nếu chẳng phải là nhà nghèo, con ngỗ nghịch, tâm đau buồn khó chịu đựng
nổi thì làm sao cam tâm chuyên cầu thoát khổ niệm Phật sanh Tây? Thuận,
nghịch đều là phương tiện; nghịch cảnh còn thù thắng hơn thuận!
000 000 000
47. Dụng công mãnh liệt
Cư
sĩ Tiền Dực Sơn tự Vạn Dật đời Thanh, người huyện Thường Thục, làm nghề
nấu rượu, thích chè chén. Ít lâu sau, ông tu Tịnh nghiệp, tận lực sửa
đổi lề thói cũ, tránh sát sanh, dứt rượu thịt, khuyên mẹ ăn chay trường
niệm Phật.
Một người con của ông bịnh lao, niệm Phật qua đời,
mọi người phỉ báng, ông vẫn thờ Phật như cũ. Vợ mất, ông vẫn điềm nhiên,
cự tuyệt người khuyên tục huyền:
- Có con nhưng nó đã mất rồi, tôi cưới vợ nữa để làm gì? Chí tôi xuất thế, lẽ nào còn thèm thuồng có người nối dõi ư?
Nhà cửa bị lửa cháy, ông hướng lên không, nguyện:
- Nghiệp của tôi đáng bị lửa cháy, chỉ xin đừng làm tổn hại đến nhà hàng xóm.
Lửa
tắt, quả nhiên nhà hàng xóm vô hại. Ông chợt mắc bịnh thổ huyết, tâm
sanh tử càng thiết tha, niệm Phật càng mạnh mẽ. Ðến lúc bịnh nguy kịch,
ăn vào là ói ra ngay. Người chú là Tạ Phượng Ngô kể chuyện cổ đức nhịn
ăn để thấy Phật, ông vui vẻ bảo:
- Có phương cách tiện lợi lớn như vậy, tôi phải dũng mãnh làm theo!
Ông
liền tắm gội, đến trước bàn Phật, thắp hương, phát thệ: giữ trai giới
bảy ngày, bỏ tiền phóng sanh cầu sanh Tịnh Ðộ. Ðêm ngày niệm Phật chẳng
sót, có khát chỉ ăn dưa mà thôi. Có người hỏi: “Cả đêm chẳng ngủ, chẳng
mệt mỏi hay sao?” Ông nói:
- Chẳng ngủ có lợi là niệm Phật được
nhiều. Lúc tôi chưa bịnh chẳng được an nhàn; nay do bịnh mới được nhàn,
đúng là lúc phải dốc sức, làm sao còn mệt nhọc được?
Hết kỳ hạn, thần thức hôn loạn, ông cả sợ, chắp tay đặt trên gối, ra lệnh đốt ngón tay. Ông Tạ nói:
- Lúc này, ngươi phát nguyện ấy thì cũng giống như đã đốt ngón tay rồi, chẳng bằng nhất ý cầu về Tây Phương thì hơn.
Ông
liền nhắm mắt niệm Phật, lúc đầu còn miễn cưỡng, sau do dụng công mạnh
mẽ, dần dần thần chí an định. Lại được mười mấy người trợ duyên, tiếng
niệm Phật liên tục suốt ngày đêm. Ông chợt thấy Tây Phương Tam Thánh
hiện tiền, quang minh, tướng hảo, toan cất thân lên kim đài; chợt nghe
trên không có tiếng nói:
- Thân ông chưa sạch!
Ông liền sai lấy nước thơm tắm gội xong, Tam Thánh hiện như cũ, liền bảo người nhà rằng:
- Tôi đã đến được Tịnh Ðộ, thấy vô số hoa sen, tôi ngồi trên đó, sướng chẳng thể nói nổi!
Ông chỉ vào thân mình bảo:
- Ðây chẳng phải là thân ta!
Một lát, lại bảo:
- Phật đông nghẹt cả nhà!
Ngồi hướng về Tây, qua đời, thọ ba mươi tám tuổi.
(theo Tục Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục)
Nhận định:
Ðoạn
được rượu thịt là tham độc đã hết. Bị cười chê chẳng đoái hoài là sân
độc đã hết. Con chết, vợ mất vẫn điềm nhiên là ái căn đã đoạn. Cự tuyệt
lời khuyên lấy vợ lần nữa, chẳng mong có người nối dõi là si độc đã hết.
Vì vậy, gặp phải nghịch cảnh, ông vẫn có thể chẳng thối thất
cái tâm ban đầu; dù bịnh tật khổ sở vẫn giữ vững chánh niệm. Dù vì
nghiệp chướng hiện tiền khiến thần thức hôn loạn, ông vẫn có thể dụng
công mạnh mẽ, lại được trợ duyên nên nhanh chóng cảm được tướng tốt lành
là đài vàng, thần hồn ngao du cõi Sen, thật đáng làm gương vậy!
ooo 000 ooo
48. Trợ niệm đắc lực
Cư
sĩ Dương Liên Hàng thời Dân Quốc, người huyện Dư Diêu tỉnh Triết Giang.
Nhà nghèo, làm nghề buôn bán. Nghe lời ông Ðồng Giác Hàng tu Tịnh
nghiệp, lâu ngày đối với giáo nghĩa giải ngộ siêu quần.
Ông tham
dự Liên Xã niệm Phật. Vì bị bịnh nên lại sát sanh, dần dần xa lìa các
liên hữu. Sau bịnh nguy kịch, liên hữu bảo ông ắt phải chết. Tự xét mình
không thể nào qua nổi, ông hoảng sợ, hối hận, bèn gắng sức đến trước
Phật, tận tình bày tỏ, dốc lòng thành sám hối, lại giữ Ngũ Giới, thề
chẳng tái phạm.
Từ đấy trở đi, ông buông bỏ vạn duyên, quét sạch
ái dục, nhất tâm thầm niệm Phật hiệu đợi lúc lâm chung. Liên hữu biết
công năng trì danh của ông nông cạn nên trước hết vì ông thỉnh người trợ
niệm. Hai ngày sau, liên hữu cũng trợ niệm. Ông chợt thấy thần khí
thanh sảng, mộng thấy quang minh. Ðến canh hai, liên hữu sắp ra về,
chẳng biết rằng đến lúc đó, việc trợ niệm đã có hiệu lực. Ông liền bảo:
- Tôi chưa đến được Tây Phương, xin liên hữu lớn tiếng niệm Phật trợ niệm suốt đêm, đừng để lỡ!
Mọi người lại cao giọng niệm Phật, lại luôn luôn khích lệ ông. Chợt ông mỉm cười bảo:
- Tôi nay đã đến Tây Phương rồi, hoa sen đẹp quá! Ao báu đẹp quá! Quang minh đẹp quá!
Mắt
ông nhìn chăm chú vào tượng Phật mà qua đời. Mọi người vẫn trợ niệm đến
khi thân ông đã lạnh mới thôi, chẳng cho người nhà khóc than. Ðến trưa
hôm sau, đảnh đầu ông vẫn còn ấm, thọ ba mươi tuổi!
(theo Cận Ðại Vãng Sanh Truyện)
Nhận định:
Công
phu trì danh nông cạn mà được vãng sanh là do sức liên hữu trợ niệm.
Trợ niệm khẩn yếu như thế đó. Xin hãy đề xướng rộng rãi. Nếu như không
có liên hữu thì xin hãy dùng băng niệm Phật để trợ niệm, tạm dùng làm
phương tiện cũng có thể được hưởng đại lợi vãng sanh vậy!
000 ooo 000
45. Giác chiếu niệm Phật
Cư
sĩ Phạm Dụng Hòa tự Nguyên Lễ đời Thanh, người huyện Tiền Ðường. Lúc
nhỏ học Nho, thờ cha mẹ rất có hiếu. Lúc cha mẹ bịnh, trước sau, ông đã
cắt thịt bắp tay hòa với thuốc trị lành bịnh cho cha.
Bước vào
tuổi tráng niên, cha mẹ mất, vợ chết, ông từ bỏ trần duyên, tu tập huyền
công (cách tu hành của Ðạo giáo) hơn mười năm, đạt chút linh nghiệm. Về
sau, ông đọc những tác phẩm của ngài Vân Thê có phần tỉnh ngộ, bèn thọ
Tam Quy, Ngũ Giới, nhất chí kiên trì, thậm chí những thứ làm bằng lông
thú, dệt bằng tơ tằm, ông chẳng hề khoác vào thân. Bỏ hết những điều
mình đã tu tập, chuyên tu Tịnh nghiệp. Ông ham làm lành, thí thuốc,
phóng sanh, giúp đỡ người nghèo, chẳng nề nhọc mỏi. Gặp Tăng chúng nghèo
bịnh, ông liền cúng dường chẳng thiếu gì.
Về sau, ông bế quan
niệm Phật suốt trăm ngày. Lúc hơi thở ông vừa trở nên yên tịnh thì cách
tu huyền thuật trước kia chợt hiện ra, nhận thấy khí Thiên Ðịa cuồn
cuộn, mù mịt trong không trung xông thẳng vào miệng, mũi, chạy thẳng vào
huyệt Ðan Ðiền, hòa hợp với nguyên khí của chính mình, [cảm thấy] khinh
an chẳng thể diễn tả nổi. Giây lát, có một đứa bé cao mấy tấc từ đảnh
đầu vọt ra, lãng đãng trước mặt; được một chốc, nó lại theo đảnh đầu trở
vào.
Từ đấy trở đi, mỗi khi đến lúc hết sức tịch tịnh, vong
niệm thì liền có đứa bé bước ra, trở vào như trên. Thoạt đầu, ông rất
vui; lúc sau, ông chợt nghĩ:
- Ðây há chẳng phải là năm mươi thứ
Ấm Ma như đã nói trong kinh Lăng Nghiêm đó ư? Nếu cho là kỳ đặc thì sẽ
bị lạc vào quần ma! Niệm Phật chí tại Tây Phương, thánh cảnh chẳng hiện,
sự này ích chi?
Ngay khi đó, ông liền giác chiếu, chánh niệm
hiện tiền, đứa bé chẳng xuất hiện nữa. Ðối với yếu chỉ Duy Tâm, ông khế
ngộ sâu xa; Tín - Hạnh - Nguyện lực càng thêm thuần thục. Thường bảo với
mọi người rằng:
- Ðối với cửa ải hiểm yếu bậc nhất trong cuộc
đời này nếu có chút phần chẳng rõ thì sẽ lạc vào bàng môn. Vì vậy, tu
hành chẳng thể không thận trọng vậy!
Chợt ông kết liễu mọi việc,
dặn dò, từ biệt bè bạn, ngồi niệm Phật qua đời. Lúc liệm, đảnh đầu vẫn
còn nóng, thọ sáu mươi ba tuổi.
(theo Nhiễm Hương Tục Tập)
Nhận định:
Từng
tu tập huyền công của ngoại đạo, nguyện thường giác chiếu nên khỏi bị
đọa vào bàng môn. Chánh niệm hiện tiền, quần tà tự diệt.
46. Mật hạnh tinh tấn
Cư
sĩ họ Trần đời Thanh, không rõ tên là gì, là chú họ của các ông Thế
Anh, Mậu Tài ở huyện Thường Thục. Mỗi sáng dậy, ông thắp hương yên lặng
tụng kinh, niệm Phật. Dù gió, mưa, lạnh, nóng đều chẳng gián đoạn. Suốt
mấy năm như thế người nhà chẳng hay vì ông hành mật hạnh.
Trước
khi mất ba tháng, ông tự bảo đã đến lúc sắp mất, người nhà thấy ông
không bịnh tật gì nên không tin. Ba ngày trước khi mất, ông thị hiện
bịnh nhẹ, vẫn đi đứng như thường. Ðến ngày, ông tọa hóa, người nhà kêu
khóc; ông bèn mở mắt, dạy sơ lược vài lời, rồi nói: “Ta đi đây!” Lại yên
lặng, thân bốc ra mùi hương lạ ba ngày mới hết.
(theo Vãng Sanh Cận Nghiệm Lục)
Nhận định:
Cổ
nhân mật hạnh, dù nóng hay lạnh chẳng gián đoạn, dù là người nhà cũng
chẳng hay biết. Nay thì hành nhân rêu rao khoe mẽ nhưng một ngày nóng
mười ngày lạnh, cho nên người niệm Phật thì nhiều mà kẻ vãng sanh lại
ít. Hãy dè dặt, hãy thận trọng
Nam Mô Long Hoa Giáo Chủ Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật.
Nam
Mô A-Di-Đà Phật.
Namo Amitabha Buddha.
:
Bốn Mươi Tám Pháp Niệm Phật
Thuật giả: Giang Ðô Trịnh Vi Am
Dịch giả: Sa môn Thích Tịnh Lạc
Trong
48 pháp này, tùy phương tiện, hoàn cảnh, trình độ, có thể tùy nghi,
không nhứt thiết bắt buộc phải thực hành tất cả. Pháp này khó kết quả,
hoặc không hợp, ta hãy đổi sang pháp khác, điều cốt yếu, làm sao cho
được “Nhất tâm bất loạn" tức “Niệm Phật Tam muội” là mục đích.
Kết quả tốt đẹp sẽ đến với chúng ta, khi chúng ta biết cách thực hành cho đúng mức.
Người
tu Tịnh độ khi gần mạng chung, nên phải dự tính rằng: Phút lâm chung là
điều quan trọng cuối cùng của đời người tu hành niệm Phật, nếu giữ gìn
không kỹ, vận dụng không khéo, thì chẳng những luống uổng công phu trong
một đời là vẫn mang cái khổ lụy luân hồi sanh tử, không sao tránh khỏi.
Kệ Khai Chuỗi
Tay lần trăm tám hột châu,
Dứt trừ tội lỗi, buồn rầu tiêu tan,
Xa lìa khổ ác ba đàng,
Thế gian phiền lụy hóa toàn liên hoa.
Ái hà ngàn thước sóng xao,
Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi!
Muốn cho khỏi kiếp luân hồi,
Phải mau gấp niệm Nam mô Di Ðà.
NAM
MÔ A DI ÐÀ PHẬT
Thay Lời Tựa
Tôi
đã biết niệm Phật từ khi còn bé, vì gia đình cha mẹ đã tu pháp môn Tịnh
độ trước khi sinh ra tôi. Nhưng từ trước đến giờ, tôi chưa được gặp tập
sách nào chỉ đến phương pháp niệm Phật đầy đủ như tập này. Ðể cho người
tu niệm đỡ thắc mắc khi không biết mình phải thật hành cách nào cho có
kết quả và phải xoay sở ra sao khi gặp phải chướng ngại trên bước đường
tu niệm, nên tôi xin kính dịch để giúp phần phương tiện cho những bạn tu
Tịnh độ, tùy hoàn cảnh, căn cơ mà thực hành hầu dễ thu hoạch kết quả
mong muốn.
Về
lợi ích và giới thiệu Pháp môn Tịnh độ, ở đây tôi xin không đề cập, vì
đã có rất nhiều bản nói đến rồi. Vậy tôi cũng xin như thuật giả, là đi
ngay vào những phương pháp thực hành mà thôi.
Ðể
làm dễ và rộng một phần nào sự tìm hiểu của các bạn đồng tu, sau mỗi
pháp, nếu có chỗ nào chưa rõ ràng lắm, hoặc quá gọn tắt, tôi xin có lời
giải thích (theo sở hiểu của tôi) và một vài lời bàn giải để làm sáng tỏ
cho phương pháp mà thuật giả đã trình bày.
Nhưng
dù thế nào cũng sẽ không tránh khỏi ít nhiều thiếu xót, kính mong các
bực cao minh và các Liên hữu bốn phương vui lòng bổ chính cho, thật tôi
muôn phần cảm tạ.
Trong
48 pháp này, tùy phương tiện, hoàn cảnh, trình độ, có thể tùy nghi,
không nhứt thiết bắt buộc phải thực hành tất cả. Pháp này khó kết quả,
hoặc không hợp, ta hãy đổi sang pháp khác, điều cốt yếu, làm sao cho
được “Nhất tâm bất loạn" tức “Niệm Phật Tam muội” là mục đích.
Kết quả tốt đẹp sẽ đến với chúng ta, khi chúng ta biết cách thực hành cho đúng mức.
Kính
cầu nguyện ánh bi quang của đức Phật A Di Ðà soi sáng tự tánh Di Ðà của
chúng ta và khi mãn duyên kiếp khổ lụy Ta bà, chúng ta sẽ được thừa
nguyện lực của Ngài, đồng được vãng sanh về cảnh giới an lạc.
Nam
Mô Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật
Chùa Thiền Tôn, mùa Hạ năm Quí Mão (1963)
Liên Tử Tịnh Lạc
1. NIỆM PHẬT NÊN GIỮ Ý CĂN:
Ðã
đem tâm này niệm Phật, phàm tất cả việc tạp thiện, tạp ác (1) đều không
nên nhớ, tức hàng ngày chỉ nên làm mọi việc với ý niệm vạn bất đắc dĩ,
xong rồi thì xả, đừng để day dích, sẽ chướng ngại tâm niệm của chúng ta.
Vả lại, sở dĩ tâm niệm của chúng ta cứ còn dây dưa mãi với những tạp
thiện, tạp ác là vì ý địa chưa thuần; nếu ta niệm Phật đến lúc tâm địa
sáng tỏ, thời ý địa tự nhiên chuyên ròng nơi quán sát, không duyên tạp
sự.
Phải biết, niệm Phật có thể chuyển Phàm thành Thánh, là phương tiện giải thoát thứ nhứt của thế gian và xuất thế gian vậy.
Lời phụ giải:
Sự
sống hàng ngày đã chiếm quá nhiều thì giờ của chúng ta, bởi vậy nên
những lớp trần ai càng bám riết theo cuộc sống, làm cho chúng ta không
rảnh được sự tính toán, mà hễ tính nhiều tức loạn trí, lo âu ắt tổn
thần. Thế nên khi xác nhận cuộc sống này chỉ là tạm bợ, trả vay, quay về
với cuộc sống tâm linh vĩnh viễn, chơn thật, thì còn gì nữa mà không
buông bỏ tất cả giả cảnh, để sống với cảnh giới chơn thường. Phàm,
Thánh, mê, ngộ đều ở nơi ý địa của đương nhơn mà thôi!
2. NIỆM PHẬT NÊN GÌN KHẨU NGHIỆP
Ðã
dùng miệng này niệm Phật, phàm tất cả những việc SÁT, ÐẠO, DÂM, VỌNG
(2) không nên buông lời nói càng, nói quấy. Một khi nói lỡ, nên tự nghĩ
rằng: người niệm Phật không nên nói như thế, rồi cố gắng niệm lớn ít
tiếng danh hiệu Phật để trấn áp tâm mình và gột tẩy ngay những lời bất
thiện ấy.
Lời phụ giải:
Phàm
đã mang danh từ Phật tử và đã biết niệm Phật, tất cả phải giữ gìn khẩu
nghiệp. Nếu thoảng một lời vô nghĩa thốt ra, tự suy nghĩ ăn năn chẳng
ít, huống không có lợi ích gì cho ai, mà còn gây khổ hận cho kẻ khác,
thì dầu một tiếng cũng không nên mở miệng. Phật là tượng trưng cho sự
thanh tịnh, mà ta lại niệm Phật bằng cái miệng bất tịnh thì phỏng được
lợi ích gì? Trong kinh Phạm Võng có chép: “Nhựt nhựt khởi tam nghiệp
tội, khẩu tội vô lượng.” Miệng là cửa mở muôn điều ác hay thành vạn sự
lành, vậy ta cần phải suy kỹ trong lúc mở lời. Huống chi việc niệm Phật,
chúng ta lại càng cần phải giữ miệng cho thật sạch, nghĩa là một lời
quấy, một tiếng xấu, nhứt định phải tiêu diệt trong khi chúng còn trong
trứng nước, không để chúng thành hình, đừng nói phát ra cửa miệng. Tu
thân, tu tâm mà không tu miệng là một khuyết điểm lớn!
3. NIỆM PHẬT PHẢI CHỈNH THÂN NGHIỆP:
Ðã
đem thân này niệm Phật, thời trong mọi lúc cũng như trong mọi cử chỉ:
đi, đứng, ngồi, nằm, thân cần phải đoan chánh (3). Thân có được đoan
chánh thì tâm mới được thanh tịnh. Người niệm Phật nên tự nghiệm điều
này, thật không bao giờ dối.
Lời phụ giải:
Thân
thể có ảnh hưởng mãnh liện đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần
vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu
danh hiệu Phật, tất phải dọn mình cho thật đoan chánh, trước khi niệm.
Tâm ta tịnh được là do thân nghiệp không động, không nhiễm. Vậy nên,
muốn công phu niệm Phật có kiến hiệu, điều kiện trước tiên là phải giữ
gìn thân nghiệp cho đoan chánh.
4. NIỆM PHẬT LẦN CHUỔI:
Niệm
Phật một tiếng, tay lần một hột. Chỉ nên niệm bốn chữ, đừng lộn sáu
chữ, vì bốn chữ rất dễ thành khối (4). Trong bốn chữ A Di Ðà Phật, hoặc
lần chuỗi tại chữ A, hoặc lần tại chữ Ðà, hoạch định cho có phép tắc,
không được lầm lẫn, đây là pháp mượn chuỗi để nhiếp tâm vậy.
Lời phụ giải:
Giữ
tâm niệm thành khối, danh hiệu Phật, mỗi câu xâu xuốt với nhau không
xen hở một tạp niệm nào, ví như xâu chuỗi, hột này dính liền với hột
khác, hột hột dính liền với nhau, đó là ý nghĩa của sự niệm chuỗi. Hơn
thế nữa, đó là phương tiện nhắc nhở kẻ sơ cơ, chưa thuần với chánh niệm,
nhớ lại câu niệm Phật. Kẻ lười nhờ đó mà siêng, kẻ trễ nhờ đó mà gắng.
Khi chánh niệm đã tinh thuần, Phật niệm không lìa tự tâm, bây giờ có
chuỗi hay không cũng chẳng thành vấn đề. Thế nên kẻ sơ cơ cần nhờ nó để
làm phương tiện. Chẳng lẽ sắm chuỗi để mốc à?
5. NIỆM LỚN TIẾNG
Nếu
lúc thần trí hôn trầm (5), hay khi vọng tưởng đua khởi, hãy nên trấn
tỉnh tinh thần, to tiếng niệm Phật, niệm cho được vài ba trăm tiếng tự
nhiên đổi thành cảnh giới an tịnh. Bởi vì nhĩ căn thính lắm, nên ngoại
duyên dễ vào, tiếng làm cho tâm động, tạp tưởng nổi dậy, nên phải to
tướng niệm Phật để giữ gìn nhĩ căn, hầu mở tỏ tâm linh. Bấy giờ tâm chỉ
nghe tiếng của chính mình, mỗi tiếng liên tục, đầy đủ, tất cả những gì
phải quấy, nên, hư tự nhiên phóng xả.
Lời phụ giải:
Lúc
ta mệt nhọc, trong người hay uể oải, hay sanh chứng ngủ gật, hay cả
thân thể lẫn tâm linh như có cái gì đè nặng, bấy giờ nếu ta dùng cách
tịnh niệm, thì chỉ càng giúp cho sự mệt nhọc, ngủ gật kia đắc lực. Thế
nên ta phải to tiếng niệm Phật, quán sát tiếng niệm Phật kia từ tự tâm
lưu xuất, rồi theo lỗ tai vào lại tự tâm, vòng quanh mãi mãi như thế,
đến khi nào, tâm ta sáng suốt, ma ngủ gật kia biến mất, chỉ thuần một
câu niệm Phật rõ rành mới thôi.
6. NIỆM NHỎ
Nếu
lúc tinh thần tán thất, hoặc khi nhiều việc nhọc nhằn hay phải nhiều
điều bức bách, thì không cần phải niệm to, chỉ nên thấu liễm thần minh
(6) nhỏ tiếng niệm kỹ. Ðến khi hơi thở điều hòa, tinh thần hứng khởi, an
định tâm hồn mới nên niệm to tiếng.
Lời phụ giải:
Phương
pháp niệm nhỏ là để đối trị bệnh tán loạn. Nhiều khi vì quá bề bộn công
việc, mà thân tâm ta phải quá nhọc nhằn, hay có những việc làm ta phải
cực lòng, bực trí. Bấy giờ nên dùng pháp niệm nhỏ, vì nếu niệm to sẽ
giúp phương tiện cho ma tán loạn thêm sức mạnh. Niệm nhỏ từng tiếng từng
câu thật kỹ, thật rõ, lần lần tâm thần ta sẽ được an tịnh, bấy giờ nên
niệm lớn.
7. NIỆM THẦM
Nếu
tâm khí (7) không được điều hòa, hoặc người hay chỗ có ngại, niệm to,
niệm nhỏ đều thấy không tiện, thì chỉ nên động môi, dùng pháp niệm thầm
(Kim Cang trì), không bắt buộc nhiều ít, nhưng cần nhứt: mỗi chữ, mỗi
câu phải từ tự tâm lưu xuất.
Lời phụ giải:
Pháp
này khác với pháp niệm nhỏ trước, vì chỉ được động môi mà không cho
phát ra tiếng; nói cho dễ hiểu là chỉ nhép miệng mà thôi. Vả như có
người nằm gần ta, hay chỗ ta ở khít gần với kẻ khác, niệm thành tiếng dù
lớn dù nhỏ cũng có thể đụng đến họ, vậy nên chỉ nhép miệng niệm thầm,
không cần hạn số, bao nhiêu cũng được, miễn sao câu niệm Phật bắt nguồn
từ tự tâm, kích động đầu môi, bật thành một thứ âm thanh huyền diệu,
không thành tiếng mà vang khắp đại thiên, nhưng vẫn không ngoài đương
niệm.
8. MẶC NIỆM
Lại
hoặc niệm to, niệm nhỏ đều không hợp, tay lần chuỗi lại hiềm phiền
phức, niệm thầm vẫn thấy còn có dấu vết, thì xưa có phương tiện chí xảo
là không cần động mồm, không phát ra tiếng, chỉ bắt tâm niệm duyên
chuyên một cảnh, âm thầm dùng lưỡi gõ vào răng trước (răng cửa) hay tâm
tưởng cũng được, tùy ý, chỉ phải làm sao cho tiếng thật rõ ràng, nhưng
tiếng không phải phát ra từ cửa miệng mà phải phát ra từ tự tánh. Tánh
nghe lại phải dung thông nội tâm, nội tâm lại phải in nơi đầu lưỡi, đầu
lưỡi kéo lấy niệm căn, tự tánh nghe nghe tự tánh, ba thứ dung hội, niệm
niệm viên thông, lâu sau sẽ được thành tựu pháp quán: Duy tâm thức.
Lời phụ giải:
Dùng
pháp mặc niệm để thành tựu duy tâm thức quán này hơi khó và cao, đa
phần dành cho những bực có trình độ khá và cao trên bước đường tu tập.
Người thực hành phải dùng quán tâm, không phải dùng niệm tưởng. Không
động miệng mà tiếng phải rõ ràng, tiếng ấy là tiếng của tự tâm, dùng lối
đem tánh nghe (văn tánh) nghe lại tiếng nói của tự tánh (phản văn văn
tự tánh) đó là đã thâm đạt thật tướng của vạn pháp, thâm đạt nhứt thiết
duy tâm vậy.
9. ÐIỀU HÒA HƠI THỞ
Hoặc
lúc khí tịnh, tâm bình (8), thì trước nên tưởng thân mình đang ở trong
vòng hào quang tròn, thầm quán trên đầu chót mũi, tưởng hơi thở ra vào,
mỗi một hơi thở thầm niệm một câu A Di Ðà Phật. Phương tiện điều hòa hơi
thở, không hưỡn không gấp, tâm niệm và hơi thở nương nhau, theo nhau
ra, vào; đi, đứng, ngồi nằm đều nên làm như thế, đừng để gián đoạn.
Thường phải tự “mật trì,” nhiếp tâm đã lâu, cả hơi thở lẫn câu niệm, cả
hai đều không còn phân biệt, tức thân tâm này cũng đồng với hư không.
Trì đến thuần thục, tâm nhãn khai thông, Tam muội thoạt nhiên hiện tiền,
chính là “Duy tâm tịnh độ” đó.
Lời phụ giải:
Pháp
này cũng giống như Sổ Tức Quán trong Lục diệu môn. Dùng pháp đếm hơi
thở, để điều hòa hơi thở ra vào. Mỗi một hơi thở hoặc ra, hoặc vào đều
thầm niệm một câu A Di Ðà Phật đều đều, không nên quá gấp cũng không
được quá hưởn, vì sẽ làm chướng ngại cho sự chuyên nhứt. Phật niệm không
dứt, tâm được thanh tịnh, trí được chuyên ròng không tạp, hòa hợp với
sự bao la vô ngại của Thái hư, tất cả đều duy tự tâm, mà hễ tự tâm thanh
tịnh thì quốc độ sẽ hoàn toàn thanh tịnh đối với ta vậy.
10. TÙY PHẬN
Hoặc
lúc hôn trầm nhiều, thời nên kinh hành niệm Phật, hay khi tạp loạn
nhiều thì nên ngồi ngay thẳng, yên lặng mà niệm. Giả sử đi hay ngồi đều
không hợp, thời hoặc quỳ, hoặc đứng, cho đến tạm nằm, cũng đều cho
phương tiện rộng rãi, có thể niệm Phật được cả. Cốt yếu: bốn chữ hồng
danh (9) đừng để một niệm lãng quên, đó là yếu thuật hàng phục tâm ma
vậy.
Lời
phụ giải: Câu niệm Phật không phải chỉ dành lúc rảnh rang, hay tắm gội
sạch sẽ, đến trước bàn Phật, mà nhứt thiết thời không được xao lãng. Bởi
tâm niệm chúng sinh hàng ngày quá tạp loạn, hể hở là tạp tưởng xen vào
ngay, quấy rối tâm niệm. Như bàn tay quậy vũng nước màn màn, nếu quậy ít
hay quên quậy, màn màn sẽ trở lại ngay. Thế nên đi, đứng, nằm, ngồi,
nói, nín, động, tịnh đều phải cố giữ câu niệm Phật, không cho xen hở.
Như ông tướng giữ trại, như con mèo rình chuột, đừng để một niệm gián
đoạn. Một câu niệm Phật không xen không hở, tùy phương tiện, tùy trường
hợp, miễn sao cố giữ tâm niệm chuyên câu niệm Phật là được.
11. CHỖ NÀO CŨNG NIỆM PHẬT ÐƯỢC
Không
luận chỗ sạch hay chăng, hoặc chỗ vắng vẻ hay chỗ chộn rộn, chỗ vừa dạ
hoặc nơi thất ý, chỉ “Hồi quang phản chiếu” (10) và suy nghĩ: những cảnh
thế này ta đã gặp hơn trăm ngàn muôn ức lần, từ nhiều kiếp đến giờ; chỉ
có việc “niệm Phật vãng sanh” là ta chưa có thể thực hành trọn vẹn
được, nên vẫn còn bị trong vòng lẩn quẩn luân hồi. Giờ đây ta cũng chẳng
quản niệm được cùng chăng, chỉ thề giữ chặt “tâm niệm Phật” này, dầu
chết cũng không để dứt “niệm đầu” (11). Tại sao? Bởi niệm đầu mà để một
phút gián đoạn, thời tất cả thiện, ác, vô ký (12) bao nhiêu tạp niệm lại
sanh. Vì lẽ đó, nên dù lúc đi đại, tiểu tiện hay sản phụ lúc lâm bồn,
chỉ chăm chú việc niệm Phật, càng khổ càng niệm, càng đau càng niệm
nhiều hơn, như con thơ gọi mẹ, không sợ mẹ hiềm giận, nếu sợ mẹ giận mà
không gọi nữa, ắt đứa trẻ sẽ bị sa chân vào hầm phẩn nhơ nhớp, vì những
sự dại dột do nó gây nên. Như thế chỉ có chết mất đi mà không làm sao
được gặp mẹ.
Lời phụ giải:
Thế
thường, có người không hiểu cho rằng: vào chỗ nhơ như nhà xí v.v... mà
niệm Phật sẽ có tội. Nhưng trong pháp môn niệm Phật thì không phải vậy.
Vì câu niệm Phật lúc nào cũng phải ngự trị trong tâm hồn ta; nếu vì lúc
ăn, khi đi cầu v.v... mà để dứt, thì tức nhiên tạp niệm sẽ xen vào, mà
hễ tạp niệm xen vào được, niệm này sanh niệm khác, nối luôn không dứt,
tránh sao khỏi điều tội lỗi, và tránh sao thoát nẻo sanh tử luân hồi.
Hết
thảy chúng ta giờ đây, chưa có thể nhứt thiết thời niệm Phật, nên phiền
não niệm xen vào, biết bao điều phiền phức, đau khổ, nhọc nhằn; vậy
thời chúng ta hãy cố gắng tập nhiều, tập mãi câu niệm Phật, hễ bận việc
thời thôi. bằng hễ rảnh là ta niệm Phật. Không có gì tự nhiên mà được,
phải đòi hỏi nhiều cố gắng, nhiều nổ lực, vậy sau mới thành công. Bao
nhiêu việc đời sẽ làm ta phiền lụy, muốn tránh bao phiền lụy không chi
hơn luôn giữ câu niệm Phật.
Ðức
Phật như bà mẹ hiền thương con dại, không có bà mẹ nào là không thương
con. Thế nên, ta một lòng tưởng nhớ, tha thiết kêu cầu Ðức Phật sẽ
thương mà hiện cứu. Phật không bao giờ bỏ và cũng không bao giờ có giận
hờn vì hễ còn giận hờn ắt chưa thể thành Phật, cũng như không có đức
Phật, Bồ tát nào mà thiếu lòng từ bi cả.
Xin hãy gắng niệm, đừng khinh mà coi thường.
12. NIỆM PHẬT CÓ ÐỊNH THỜI HAY KHÔNG
Trong
pháp thứ mười một, không có định thời, nếu vậy sẽ ít người làm được.
Bài này phương tiện nói có định thời là: sớm, tối hai thời, hoạch định
thường khóa, từ nay đến suốt đời, không thêm, không bớt, ngoài ra trong
suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ, có thể niệm được một câu, thì nên niệm
một câu, có thể niệm được nhiều câu, thì nên niệm nhiều câu, bất luận
niệm lớn hay nhỏ.
Cổ nhơn có bảo:
Ít nói một câu tạp
Nhiều niệm một câu Phật
Ðẹp tốt biết bao nhiêu!
Lời phụ giải:
Vì
sợ có nhiều vị, không thể lúc nào cũng giữ câu niệm Phật được (bởi quá
bận kế mưu sinh) nên phải phương tiện định thời. Thế là ai cũng có thể
tu Tịnh độ pháp môn được. Nhưng điều cốt yếu: khi đã định thời, thì phải
cố gìn, đừng để sai siển, dù lúc bịnh hoạn hay đau khổ.
Tuy nhiên, hễ khi nào rảnh rỗi là ta phải nhớ ngay câu niệm Phật.
Ðánh đổi chúng sinh niệm bằng Phật niệm, tuy không được cao siêu nhưng là một phương tiện hiếm có để chuyển mê thành giác vậy.
13. CÓ ÐỐI TRƯỚC TƯỢNG HAY KHÔNG TRONG KHI NIỆM PHẬT?
Lúc
đối trước tượng Phật, phải cho tượng này là thật Phật, không cần câu
chấp một phương hướng nào, chẳng luận một thân nào trong ba thân của
Phật, chỉ tự nghĩ: Ta chỉ nhứt tâm, tâm chỉ nhứt Phật, mắt nhìn tượng
Phật, tâm niệm danh Phật, thật hết sức thành kính, mà hết sức thành kính
tất được linh cảm.
Lúc
không có tượng Phật, nên ngồi ngay ngắn xoay mặt về phương Tây, lúc
khởi tâm động niệm, nên niệm tưởng hào quang của đức Phật A Di Ðà trụ
trên đỉnh đầu ta, mỗi niệm, mỗi câu, tự chẳng để rơi vào khoảng không,
hắc nghiệp cũng có thể tiêu diệt.
Lời phụ giải:
Người
sơ cơ chưa có thể quán tự tâm tức Phật, thế nên phương tiện đối trước
Phật tượng cho dễ xúc cảnh sanh tâm, nhưng điều cần thiết là phải hết
sức thành kính vì hễ có cảm mới có ứng được.
Bài này dạy rõ, khỏi phải bàn luận dài dòng, hành giả nên coi kỹ và theo như thế, tội nghiệp sẽ được tiêu trừ, Phật tâm tự hiện.
14. NIỆM PHẬT TRONG LÚC BẬN RỘN
Nếu
niệm được một câu, thì nên niệm một câu, có thể niệm 10 câu, thì nên
niệm 10 câu; chỉ làm sao trong 100 điều bận rộn có được trong khoảnh
khắc một chút rảnh rang liền buông bỏ thân tâm sáng suốt tụng trì.
Ngài Bạch Lạc Thiên có bài thi rằng:
Ði niệm A Di Ðà
Ngồi niệm A Di Ðà
Ví dù bận rộn như tên
A Di Ðà Phật niệm lên thường thường.
Người xưa dụng tâm như thế, thật không thể chê được!
Lời phụ giải:
Có
người quá bận rộn với mực sống, có rảnh đâu nhiều mà niệm Phật; tuy
nhiên trong trăm việc bận, chắc cũng có chút thì giờ rảnh, hể rảnh thì
niệm Phật, đừng để trí phải nghĩ tưởng vẩn vơ, khổ sầu vô ích. Việc đời
chuyện đâu bỏ đó, đeo đẳng làm gì thêm mệt, để thì giờ niệm Phật cho
khỏe trí còn hơn không? Có nhiều người để phí bao nhiêu thì giờ tán gẩu
những chuyện đâu đâu, chỉ chuốc lấy bao nhiêu điều phiền lụy, do vài câu
bất ý trong lúc vui miệng, cũng đủ gây cho lòng những mối lo âu, khổ
sở, hay chuốc cho thân những đau đớn lụy phiền!
15. LÚC NHÀN RỖI NÊN NIỆM PHẬT
Trong
đời có nhiều kẻ quá ư khốn khổ, muốn chút rảnh cũng không sao có được,
nên không thể tu hành. Nay ta được rảnh rang, lại nghe biết được pháp
niệm Phật này, cần phải gắng gổ, tương tục thúc liễm thân tâm, chuyên
trì Phật niệm; như thế mới không uổng phí tấc bóng quang âm. Nếu để tâm
niệm buông trôi, không làm được việc gì, luống tiêu bao ngày tháng, cô
phụ bốn ân, một mai vô thường thoạt đến, sẽ lấy gì để chống cự đây?
Lời phụ giải:
Có
người cầu được chút rảnh rang để niệm Phật còn không có, ta nay duyên
đời không bận buộc, vậy đừng nên bê trễ nữa, hãy cố gắng niệm Phật, đừng
để ngày lại, ngày qua, rồi già, rồi chết, đến khi bây giờ dù muốn rảnh
được một chút, sống thêm một giờ để niệm Phật cũng không được. Thật tiếc
lắm thay!
16. NGƯỜI SANG GIÀU PHẢI NÊN NIỆM PHẬT
Phước
đức của đời này đều từ việc tu hành kiếp trước. Những gì tôn quí vinh
huê, quá nữa là các bực cao tăng chuyển thế. Nhưng tuy có vinh huê mà
không được trường cửu, nếu lại tạo điều nghiệp chướng ắt khó thoát khỏi
biển trầm luân. Vậy nên các ngài phải tự suy nghĩ: những gì ta có thể
mang theo được khi nhắm mắt? Ấy là công đức niệm Phật. Cũng như thuyền
đi nhờ nước. Thế nên, hoặc lập thất niệm Phật, hoặc mời chư Tăng hướng
dẫn mình niệm Phật, in khắc kinh sách Tịnh độ, hoặc đặt tượng Phật A Di
Ðà để chiêm ngưỡng mà niệm, việc làm tuy ít, nhưng phải dụng công cho
nhiều, lại phải chí quyết vãng sanh, đó là con đường tu hành của tất cả
mọi người, chẳng luận giàu, nghèo, sang, hèn. Làm vị sứ giả của ngôi
Pháp vương còn gì tôn quý hơn!
Lời phụ giải:
Vạn
ban tương bất khứ, duy hữu nghiệp tùy thân, dù ta có nhờ phước đức đã
gieo trồng đời trước, hưởng được phú quí vinh huê, song chỉ hưởng tạm mà
thôi, khi ba tấc hơi dứt mọi việc buông xuôi, chỉ nắm hai bàn tay
trắng. Vậy thì ta có nên bám víu những cái giả ảnh ấy chăng? Chúng ta
chắc đã ý thức rõ ràng điều đó. Thế thì chúng ta phải kíp lập thành tích
niệm Phật ngay và thật hết lòng cố gắng như chúng ta đã cố gắng lo làm
giàu vậy. Người vô trí cho giả là thật, nên chạy theo những cảnh tướng,
danh sắc phù phiếm bề ngoài, có được chút vui, song chỉ là cái vui tạm
bợ trong chốc lát. Kiếp người chóng tàn, thân người chóng diệt, chỉ có
đạo đức thường còn, chân thật, không có những ồ ạt bên ngoài, không có
cái vui chốc lát. Xem như Ngài Khổng Tử còn bảo: “Ăn cơm nguội, uống
nước lạnh, co tay mà gối đầu cũng có điều vui ở trong vậy!” Cái vui đó
mới là cái vui của người trí.
17. KẺ NGHÈO HÈN CŨNG NÊN NIỆM PHẬT
Than
ôi! Có kẻ đã đem thân làm nô lệ, bị người khác sai sử, vất vả, khổ sở,
mà không cầu mong thoát khỏi, thì về sau càng khổ hơn.
Nên
biết bốn chữ Hồng danh chẳng luận sang, hèn, giàu, nghèo, trẻ, già,
trai, gái, chỉ cần mỗi ngày vào lúc sáng sớm chí tâm xây mặt về phương
Tây, niệm 10 câu danh hiệu Phật, không xen, không dứt, để cầu sanh Cực
lạc, thì hiện đời sẽ được hưởng nhiều lợi ích, khi thác tự được vãng
sanh. Ðức Phật A Di Ðà thiệt là chiếc thuyền cứu mạng cho mọi người
trong biển khổ vậy.
Lời phụ giải:
Ở
đời, đâu có ai nghèo đến nỗi không có thân, tâm? Vậy ta nên đem thân,
tâm sẵn có đó niệm Phật. Trong kinh Hiền Ngu Nhơn Duyên có đoạn: Tôn giả
Ca Chiên Diên độ bà già ở mướn, bán cái nghèo bằng phương pháp Niệm
Phật, bà đã đạt kết quả. Vậy chúng
ta nên bắt chước bà già ấy bán quách cái nghèo đi cho rảnh, đeo đẳng làm
gì thêm khổ? Khổ mà biết là khổ để tìm phương pháp thoát ly ấy là kẻ
trí. Khổ mà vẫn không biết là khổ, lại còn cho cái khổ là vui, thì thiệt
hết chỗ nói!
18. TỊNH TẾ NIỆM PHẬT
Ðã là người có trí huệ thì đừng để bị mê hoặc, cần phải hết sức tịnh tế niệm Phật để cho trí huệ được thêm kiên cố.
Phải
biết, người trí niệm Phật thì thiên hạ sẽ có rất nhiều người niệm Phật.
Người trí niệm Phật thời những kẻ tu hành theo ngoại đạo sẽ dễ trở về
chánh đạo. Tại sao? Vì tiếng tăm của người trí có thể mở lòng dạ họ, vì
có tác dụng trí của người trí cứu rổi họ.
Lời phụ giải:
Việc
làm của người trí sẽ mang đến một ảnh hưởng tốt đẹp và hữu ích cho kẻ
thấp hay thiếu trí, trong trường hợp việc làm ấy với ý nghiệp lành. Vậy
nên người trí phải tỏ ra xứng đáng sự tin tưởng của mọi người, đừng nên
để những việc ngu hèn, những thị dục thấp kém gạt gẫm.
Một
người có quyền thế tu niệm, sẽ có ảnh hưởng thật tốt đẹp đến những kẻ
chung quanh. Nhờ sự khôn khéo, sáng suốt, cộng vào đó sự tin tưởng mãnh
liệt của người lân cận, mà người trí khả dĩ làm được những chuyện to tát
có ảnh hưởng đến thế đạo nhơn tâm. Làm một mà kết quả được nhiều, đó là
điều của nhiều người mong muốn. Ấy thế mà nhiều kẻ có thể làm được lại
không chịu làm, hay làm cho lấy có thì thật đáng tiếc rẻ lắm thay!
19. LÃO THẬT NIỆM PHẬT
Ðã không cầu danh lợi, cũng không khoe tài năng, chắc thật tu hành thật là rất khó có người làm được.
Tổ
sư dạy: Về phương diện tham thiền, bởi tìm một người si độn cũng không
có. Nay người niệm Phật chính lo mình không được si độn mà thôi. Hai chữ
“Lão Thật” là một đại lộ thẳng tắp đưa người sang Tây phương vậy. Tại
sao? Vì hai chữ Lão Thật là ngoài bốn chữ A Di Ðà Phật không thêm một
mảy may vọng tưởng nào.
Lời phụ giải:
Người
nhứt tâm niệm Phật, không duyên ngoại cảnh, lòng không chao động trước
bất cứ một khuấy rối nào, coi như tất cả không có gì dính líu đến mình,
con người ấy bề ngoài hình như kẻ ngây ngô, si độn lắm, nhưng trái lại
thật là sáng suốt, thật là thanh tịnh đó. Người như thế thật không phải
dễ kiếm! Phương chi, trong pháp môn niệm Phật có câu: Niệm bất nhứt bất
sanh Tịnh độ. Mà hễ niệm nhứt thì muôn duyên buông bỏ, chuyên ròng câu
niệm Phật. Lòng ta niệm Phật cùng lòng Phật tương ưng. Tây phương không
lìa đương niệm, không cần đoán xa xét rộng chi cả mà Phật cảnh vẫn hiện
tiền. Hy hữu thay Pháp môn Tịnh độ!
20. ÐƯỢC ÐIỀU VUI MỪNG, NHỚ NIỆM PHẬT
Hoặc
nhơn nơi người mà vui, hoặc nhơn nơi việc mà mừng, mối manh tuy nhỏ
nhít, nhưng đều là những cảnh vui vẻ của kiếp người. Song phải biết cái
vui đó nó hư huyễn không thật, không thể còn lâu, vậy nên nương nơi giây
phút tươi vui đó, xoay tâm niệm Phật, thời ắt được nhờ ánh hào quang
của Phật, trong thuận cảnh ấy bỏ dứt đi ít nhiều ác niệm, những điều tốt
đẹp liên miên, như ý tu hành, mãi đến lúc mạng chung sẽ được vãng sanh
Cực lạc, há chẳng vui mừng lắm sao!
Lời phụ giải:
Kiếp
sống của ta vui ít khổ nhiều, có vui chăng chỉ là cái vui tạm bợ, chốc
lát qua đi, nhường chỗ cho điều đau khổ dày vò con người. Vậy thì cái
vui có bền bỉ gì mà ta lại tự hào hay níu nắm nó.
Những
điều vui vẻ đáng cho ta ưa thích, vì nó chơn thật, thường còn ấy là cái
vui thanh tịnh của tự tâm. Cảnh Cực lạc của Phật A Di Ðà sẵn sàng đón
tiếp những con người tự tâm được thanh tịnh. Về được đó rồi còn gì vui
hơn?
21. HỨA NGUYỆN NIỆM PHẬT
Trì
danh niệm Phật nguyên để cầu vãng sanh nhưng oai phong của chư Phật
không thể nghĩ bàn hễ niệm danh hiệu của các Ngài thì sở nguyện đều tùy
tâm. Vì lẽ đó, trong kinh dạy: niệm Phật có 10 điều lợi ích (xin xem
phần sau). Những việc cầu cúng quỉ thần, tạp tu sự sám, khấn hứa nhiều
ác nguyện, tin xằng những việc bói toán xâm quẻ, không bằng dùng phương
pháp niệm Phật để cầu nguyện.
Có kẻ hỏi: Vả như niệm Phật mà không ứng nghiệm thì sao?
Ðáp:
Ông chưa niệm Phật mà đã lo không ứng nghiệm, chính cái nhơn không ứng
nghiệm đó đem đến cái kết quả không ứng nghiệm vậy. Nhơn thế nào thì quả
thế nấy, há không đáng sợ lắm sao?
Lời phụ giải:
Phật
là đấng đại từ, đại bi, đại trí, đại đức, tối tôn vô thượng, là bậc
thầy của trời người sáu đường. Thế thì, khi cầu nguyện sao lại không cầu
nguyện nơi các Ngài? Thật cũng lấy làm lạ! Có lắm kẻ sợ ma quỉ yêu tinh
hơn sợ Phật, có lẽ cho rằng Phật hiền, ma quỉ dữ chăng? Hay tại lòng
mình không chơn chánh, vì có điều tội lỗi, vạy tà nên lờn chánh, ngán
tà? Người Phật tử hãy suy nghĩ cẩn thận điều này, kẻo mình là Phật tử mà
vô tình làm đệ tử ma!
22. NIỆM PHẬT ÐỂ CẦU CỞI MỞ
Phàm
tất cả nghịch cảnh quanh ta, đều do trái duyên nên có hiện (ta phải cố
cam nhận chịu) không nên lại khởi ác niệm, để phải dẫn khởi oan trái đến
mãi về sau không dứt. Ta phải nên tùy thuận nhận lãnh, có thể tránh
được thời tránh, dứt được thời dứt, chỉ tùy nhân duyên mà đừng quên niệm
Phật. Phật có vô lượng trí huệ, phước đức quang minh, Ngài sẽ gia hộ
cho ta: dù gặp nghịch duyên, trái cảnh, cũng chuyển thành thuận cảnh,
thuận duyên ngay.
Lời phụ giải:
Oan gia nghi giải bất nghi kết, đừng nên đem oán trả oán, thì oan trái mới dứt. Vậy chỉ có pháp niệm Phật là ổn nhứt.
Ví dù muôn đắng nghìn cay
Một câu niệm Phật tan ngay cấp kỳ
Niệm Phật dứt bỏ oán thù
Lòng không hung dữ ngục tù đâu vương...?
Niệm Phật mở rộng lòng thương
Oán thân bình đẳng tai ương có nào?...
23. HỔ THẸN TỰ GẮNG NIỆM PHẬT
Phàm
đời này hay kiếp trước, ác quả đã thành tựu, thì khổ báo ắt đến, mà một
phần khổ ở đời này tức là một phần ác trong kiếp trước, không thể đổ
thừa cho vận mạng bất tề, mà chỉ nên tự hổ phận mình chẳng sớm lo tu.
Mỗi một khi tưởng Phật, tưởng như lông trong thân đều dựng đứng, năm vóc
như rã rời, buồn thương, cảm mến, đau xót, không muốn sống. Như vậy
thời mỗi câu, mỗi chữ từ trong gan, tủy mà ra mới là chơn cảnh niệm
Phật.
Ngày
nay kẻ tăng, người tục niệm Phật, hoặc miệng niệm mà tâm tán, hoặc chỉ
nhiếp tâm lúc niệm, dứt niệm thì tâm mê. Lại có người đang lúc niệm Phật
xen nói chuyện tạp. Thế thì dù niệm suốt đời cũng không linh cảm. Mọi
người thấy vậy, cho rằng: niệm Phật vãng sanh là những lời láo khoét.
Lỗi ấy há do Phật sao?
Lời phụ giải:
Ta
cùng chư Phật động một thể tánh thanh tịnh, không hai không khác, thế
mà các Ngài đã giác ngộ, sáng suốt bỏ giả theo chơn, còn chúng ta lại cứ
mãi nhận hư làm thật, bội giác hiệp trần, cam chịu quanh quẩn mãi trong
vòng khổ lụy trần ai. Thật còn gì hổ thẹn cho bằng! Vậy nên phải vận
dụng tận cùng năng lực, hết chí lo tu, lấy chết làm kỳ hạn, cầu thoát
sanh tử, không còn nghĩ ngợi, đắm lụy trần ai, để phải nhiều kiếp trôi
chìm trong sông mê, bể khổ.
24. KHẨN THIẾT NIỆM PHẬT
Phàm
người ở trong tất cả hoàn cảnh khổ đáng thương, mà ta không thương, tất
trái với nhơn tính, nhưng ở trong tất hoàn cảnh đáng thương, ta chỉ
thương suông thì làm sao hợp được với tánh Phật? Ðã thương thì phải tìm
phương thoát khổ, phải tìm cách cho mọi người rốt ráo thoát khổ. Phải
biết rằng: Phật sở dĩ được tôn xưng là Ðấng Ðại Bi, vì Ngài hay cứu khổ
cho chúng sinh. Ta do lòng từ bi niệm Phật là cốt cầu lòng từ bi của
Phật ban cho, cứu vớt khổ não cho chúng ta, thì cái niệm đó phải khẩn
thiết đến bực nào?
Lời phụ giải:
Niệm
Phật để cầu thoát sinh tử, mà sinh tử là cái vòng xích vô cùng kiên cố,
vì nghiệp hoặc phiền não của chúng ta quá đỗi sâu dày, lại thêm tội
chướng ngày càng chồng chất lên thêm, nếu niệm lực không kiên cố, tâm
niệm không tha thiết chí thành, thì riêng mình nói đến chuyện giải thoát
còn là chuyện xa vời, huống là muốn cứu khổ cho người sao? Vậy ta nên
hết lòng khẩn thiết niệm Phật để mong được lòng từ bi chiếu cố của Phật,
như con thơ tha thiết trông được về với từ mẫu. Họa chăng?
Chú thích:
(1) Thành khối tức Nhứt Tâm hay Tam muội đó. Niệm Phật cốt giữ một lòng không tán loạn, không xen tạp, như đường đã thành kẹo.
(2) Hôn trầm: nặng nề, ngủ gật, làm cho thân không được tự tại, tâm không được sáng suốt.
(3) Thâu buộc tâm niệm, đừng cho nó chạy theo vọng trần, vọng cảnh tán loạn mất chánh niệm, bấy giờ tinh thần sẽ được sáng suốt.
(4)
Tâm khí: Tâm là tâm niệm, khí là hơi thở. Tâm niệm bị loạn động, hơi
thở đứt nối không đều, nên gọi là tâm khí không điều hòa.
(5) Khí tịnh tâm bình: hơi thở điều hòa, an tịnh, tâm niệm bình thản, thơ thới.
(7)
Thường người ta niệm sáu chữ (lục tự Di Ðà) nhưng suy kỹ thì sáu chữ sẽ
khó nhứt tâm và khó thành khối hơn 4 chữ. Ngài Pháp Chiếu Ðại sư trong
Ngũ Hội Niệm Phật cũng chủ trương 4 chữ.
(8) Hồi quang phản chiếu: Xoay quán trí trở về quán sát nội tâm, không duyên theo ngoại cảnh.
(9)
Niệm đầu: Không phải niệm đầu là lúc đầu khi mới niệm Phật, mà mỗi niệm
nối liền nhau, câu niệm Phật trước gối đầu câu niệm Phật sau, không hở
không dứt.
(10) Vô ký là không nhứt định thiện hay ác.
(11) Ba thân Phật: Pháp thân, Báo thân, Ứng hóa thân.
(12) Hắc nghiệp: Nghiệp đen, chỉ cho phiền não nghiệp, ác nghiệp.
(13)
Buông bỏ thân tâm: nguyên chữ Hán “thân tâm phóng hạ,” ý nói không còn
một chút gì dính măc trong tâm, xả bỏ tất cả, nghĩa như câu “huyền nhai
tán thủ” là ở trên gộp đá cao, buông tay rơi xuống vực sâu thẳm, không
còn níu nắm đâu nữa cả.
(14) Pháp vương là vua của các pháp, ý nói đức Phật đã thâm đạt thật tướng các pháp, ở trên sự vật mà nhìn sự vật.
25. CÚNG DƯỜNG NIỆM PHẬT
Phàm
gặp giai tiết (tiết đoan ngũ, tiết trung thu v.v...) hoặc ngày vía
Phật, Bồ Tát thì nên hương đăng hoa quả tùy phận cúng dường, nhưng đó
chỉ là tài cúng, chưa phải pháp cúng. Pháp cúng thuộc về tâm, quý hơn
tất cả tài cúng.
Gần
đây, vì tà giáo thạnh hành, bày đặt các pháp cúng kiến, la liệt quả
phẩm, tam sanh, heo, dê, gà, vịt có ích gì cho sự tu hành? Thậm chí, còn
bày bố trận đồ, chiêu hồn dẫn quỉ, tà mị, dị đoan, càng làm cho hao tài
tổn mạng, dối dá bậy bạ, phỉnh gạt người đời.
Chỉ
pháp môn niệm Phật thì vạn bịnh tiêu trừ không tốn không hao, lại ít
người chịu biết đến. Kính mong những trang thức giả đừng để bị lầm.
Lời phụ giải:
Giết mạng sống của kẻ khác để cúng cầu cho mạng mình được sống, thật là hết sức ích kỷ và vô nhân đạo!
Câu:
“Thiên địa vô tư, thần minh ám sát, bất dĩ tế hưởng nhi giáng phước,
bất dĩ thất lễ nhi giáng họa” sao không suy xét cho kỹ càng. Thần thánh
đâu vì của cúng như tham quan ăn hối lộ sao? Trời đất không có lòng tư
vị ai, hễ làm lành thì hưởng quả tốt, làm dữ mắc báo xấu thế thôi. Các
bậc thần minh thầm xét nghiệm những tâm niệm, hành vi thiện, ác của mình
tùy thời răn phạt, nào phải vì ta cúng tế mà các Ngài bỏ qua những điều
tội lỗi của ta đâu?
Hơn nữa, tâm mình ngay, thân mình chánh, có sợ gì mà phải bận tâm lo nghĩ?
Khi
niệm Phật, Phật hiệu đã ngự trong tâm ta, lòng ta xứng hợp với lòng
Phật, cùng xứng hợp một điển lực thanh tịnh, thì tà ma nào dám nhập?
Nghe theo tà mị, dị đoan chỉ càng làm cho hàng thức giả chê cười, mà
cũng lại chuốc lấy họa hại không ít do một số kẻ lợi dụng lòng tin tưởng
và sợ sệt của ta.
Vậy hãy suy nghiệm cho thật chín chắn.
26. NIỆM PHẬT ÐỂ BÁO ÂN CHA MẸ
Ân
của cha mẹ là cái ân to lớn nhứt phải làm sao báo đáp? Cung phụng tất
cả những thức uống ăn, lập công danh để hiễn đạt phụ mẫu, chỉ là phép
báo đáp của thế gian; mặc dầu không phải là bất thiện, song xét cho tột
thì đây chưa phải trọn vẹn (vì dù sao cũng vẫn còn trong vòng khổ lụy
của kiếp người). Chỉ có cách là ta niệm Phật và khuyên cha mẹ niệm Phật,
đem công đức ấy hồi hướng Tây phương, đó là gieo một hột giống kim
cương, về sau ta và cha mẹ cùng tự được giải thoát. Huống chi một câu
niệm Phật lại có thể tiêu được vô biên tội chướng. Những ai muốn báo
thâm ân cha mẹ, không thể không biết pháp này.
Lời phụ giải:
Cung
phụng cha mẹ về mặt vật chất, nào quạt nồng, ấp lạnh, món ngon vật lạ,
áo ấm cơm no, đó mới chỉ là cái hiếu thế gian mà thôi. Nếu không lo tu
nhơn xuất thế, tất phải đọa lạc tam đồ, quanh đi quẩn lại sanh tử không
cùng, sao gọi là báo hiếu trọn vẹn được?
Thế
tất phải tìm cách nào cho rốt ráo? Chỉ có Pháp môn Tịnh độ Niệm Phật,
cầu sau khi xả báo thân này, nương nhờ nguyện lực của Phật A Di Ðà mà
được cùng vãng sanh Cực lạc. Nhờ chiếc thuyền nguyện lực của Phật, bao
nhiêu tội chướng của chúng ta dù nặng như đá cũng nương đó mà qua sông
dễ dàng. Thế thì công ít mà quả to, ta còn chần chờ gì nữa?
27. BỐ THÍ BẰNG CÁCH NIỆM PHẬT
Phàm
thấy người khổ não, trước phải giúp cho họ an thân (cho cơm, cho áo)
rồi sau mới an ủi khuyên họ niệm Phật. Bởi vì cứu cái khổ trong nhứt
thời, bố thí là gấp, mà cứu cái khổ nhiều kiếp, phương pháp niệm Phật
lại gấp hơn. Hoặc thấy người hay vật bị nạn, sức mình không cứu rỗi được
phải gấp niệm Phật cầu an cho hồn thức ấy. Hoặc đêm thanh tụng niệm cầu
nguyện cho mọi loài thoát khỏi tai ương. Gặp lúc đao binh, tật dịch,
năm canh trì niệm Phật danh, cầu cho chúng sanh được tiêu trừ mọi oan
khổ.
Nên
quán tưởng: Một câu A Di Ðà Phật của ta đây, trên tột trời Hữu đảnh
dưới suốt đáy phong luân mọi loài chúng sanh một thời đều được lợi ích.
Cách bố thí đó thật không thể nghĩ bàn vậy.
Lời phụ giải:
Trước
cho ăn no, mặc ấm để đỡ khổ phần xác, sau khuyên bảo niệm Phật để cứu
rỗi linh hồn. Gặp nhiều trường hợp mà sức ta vô khả nại hà, chỉ nên nhứt
tâm niệm Phật, vận dùng tất cả điển lành của mình chỉ hướng về kẻ ấy,
cầu nguyện cho họ thoát khỏi khổ lụy của kiếp sống triền miên, giải
thoát an nhàn nơi thiện cảnh. Một câu niệm Phật diệt oan khiên.
28. TỰ TÂM NIỆM, TỰ TÂM NGHE
Tâm tưởng, rồi mới động đến lưỡi, lưỡi khua động thành tiếng lại trở vào tự tâm, là pháp: Tâm niệm tâm nghe vậy.
Mà
hễ tâm niệm tâm nghe thời mắt không thể thấy bậy, mũi không thể ngửi
bậy, thân không thể động bậy, vị chủ nhơn ông (tự tâm) đã bị bốn chữ A
Di Ðà Phật bắt cóc mất rồi.
Lời phụ giải:
Niệm
tức là niệm tự tâm Phật, tai nghe tiếng niệm là nghe tiếng của tự tâm,
tiếng ấy từ tự tâm mà ra, rồi lại chạy ngược vào tự tâm, xây vòng như
vậy, thời một mảy vọng tưởng cũng không còn, tất cả vọng trần, vọng cảnh
cũng từ đấy mà diệt.
Niệm Phật niệm tâm, tâm niệm Phật
Tham thiền tham tánh, tánh tham thiền.
29. NIỆM PHẬT TRONG TIẾNG NIỆM
Tiếng
niệm Phật đã thuần thục rồi, thời trong sáu trần chỉ còn một thinh
trần. Tất cả sáu căn hoàn toàn gởi nơi nhĩ căn (lỗ tai). Thân cũng không
còn cảm biết tới lui, lưỡi cũng không còn biết khua động, ý cũng không
còn cảm biết phân biệt, mũi cũng không còn cảm biết hít thở, mắt cũng
không còn cảm thấy mở nhắm. Hai thứ viên thông của hai ngài Quán Âm và
Thế Chí cũng tức là một, không chi là chẳng viên và chẳng chi là không
thông cả. Vì căn tức là trần, trần tức là căn, căn và trần tức là thức.
Mười tám giới (1) đều dung hợp thành một giới. Trước chưa được thuần,
lâu sau sẽ dần dần thâm nhập.
Phàm
trong khi niệm Phật, phải lựa một chỗ vắng, yên, sạch sẽ, khoảng 4,5
thước vuông, đi nhiễu một vòng theo phía tay mặt, rồi sau từ từ cất
tiếng niệm Phật, tiếng cao lên dần dần, niệm như vậy độ 3 vòng trở lên
sẽ tự cảm thấy tâm, tiếng tỏ bày vòng quanh khắp thái hư, bao bọc cả 10
phương, trùm đầy toàn pháp giới. Ðó là cách an trụ thân tâm, thế giới
vào trong tiếng niệm Phật, và đó là đem thân, tâm của mình an trụ trong
tiếng niệm Phật mà niệm Phật. Ðây là cảnh thù thắng để tiêu diệt tâm địa
phiền não nhơ trược, hành giả cần phải gắng tập cho kỳ được.
30. NIỆM PHẬT TRONG ÁNH SÁNG CỦA TỰ TÂM
Phàm
tiếng là tiếng của tự tâm, thì ánh sáng cũng là ánh sáng của tự tâm. Hễ
tiếng của tự tâm quanh lộn ở chỗ nào thì ánh sáng của tự tâm phóng ra ở
chỗ ấy; nếu ta an trụ trong tiếng của tự tâm mà niệm Phật, tức là an
trụ trong ánh sáng của tự tâm mà niệm Phật vậy. Ðây cũng là cảnh thù
thắng diệt được lòng tham phiền não nhơ bẩn, hành giả nên gắng siêng tu
tập.
31. NIỆM PHẬT TRONG THỂ CỦA TỰ TÂM
Tiếng
nói của tự tâm vòng quây và ánh sáng tự tâm chiếu phát, tự nhiên tâm
thể phơi bày. Một chơn tâm này như tấm gương tròn lớn (Ðại viên cảnh)
rỗng thông sáng suốt, không gì ngăn ngại, mười phương, ba đời, ta, Phật,
và chúng sanh, vòng khổ của đời trược, đài sen nơi cảnh tịnh đều là
bóng trong gương cả. Cho nên niệm Phật trong tiếng tức trong ánh sáng,
trong ánh sáng tức trong gương không phải một, khác. Ðây cũng là cảnh
thù thắng tột cùng, diệt hẳn được tâm nhơ, cần phải gia công hết lòng tu
tập.
Lời phụ giải:
Tâm
thể vốn luôn luôn thanh tịnh (tịch), nhưng hằng phát khởi diệu dụng sai
thù (chiếu). Khi chúng ta nhận được toàn thể đại dụng không ngoài tánh
thể thường như, thì bấy giờ, tâm, Phật và chúng sanh vốn chỉ là một,
rỗng thông, sáng suốt, không gì ngăn ngại. Thật hành pháp niệm Phật mà
đạt được như đây, thật quả là bậc đại căn tánh vậy! Muôn pháp đều chỉ là
bóng hình trong gương, vốn dĩ hư huyễn, tự sanh, tự diệt, đâu can phạm
gì đến tánh thể tự cổ thường như, bất sanh bất diệt của chơn tâm. Thấu
triệt được lý này ắt đã thoát được ngoài dòng cương tỏa của không gian
và thời gian rồi vậy.
32. KHÔNG DỨT
Buổi
sáng niệm, buổi tối cũng niệm; vô sự niệm, hữu sự cũng niệm; chỗ sạch
niệm, chỗ nhơ vẫn niệm, không một niệm nào mà không phải là niệm Phật.
Giả sử hàng ngày có sự thù tiếp bạn bè, đãi đằng khách khứa, có lúc gián
đoạn, nhưng chỉ gián đoạn thinh niệm, chớ không thể gián đoạn được tâm
niệm. Niệm Phật mà công phu đến thế, thì dễ thành Tam muội lắm.
33. KHÔNG TẠP
Không xen tạp niệm tức là Chỉ, Chỉ là nhơn của Ðịnh, dừng được tạp niệm, thì chánh niệm (định) tự nhiên phát hiện.
Tạp
niệm có 3: Thiện, ác, và vô ký, trừ hết ba thứ mới là không tạp. Tâm
cần vắng lặng, vắng lặng thời các niệm thiện, ác không sanh. Tâm cần
sáng suốt, sáng suốt thời vô ký niệm không có.
Ngoài Phật không có niệm nên thường vắng lặng, trong niệm có Phật nên thường sáng suốt rõ ràng.
34. KHÔNG DỪNG
Không
dừng tức là Quán, Quán là nhơn của Huệ. Câu (niệm Phật) trước đã qua,
câu sau chưa đến, câu hiện tại cũng không dừng. Cứ thế mà quán sát, rõ
ràng nhưng không thể được (không câu chấp), không thể được nhưng lại rõ
ràng. Ðuổi như vậy mãi sẽ thấu đạt lẽ vạn pháp duy tâm, tức Phật tức
tâm, tức tâm tức Phật.
Lời phụ giải: (cho cả ba pháp trên)
Niệm
Phật tức niệm tự tâm Phật, cho nên không ngại gì chỗ nhơ sạch. Lại
chúng sanh vốn đồng một thể tánh chơn tâm với Phật, vì vọng động bất
giác nên để tánh Phật vốn sẵn sáng suốt phải bị phiền não vô minh che
lấp, làm cho mê tối đảo điên, càng ngày càng chạy theo vọng trần vọng
cảnh, xa lần thật thể, nhận giả làm chân; bấy giờ nhất niệm giác ngộ
quay về ánh sáng của tâm, thì dễ gì trong một ít thời gian mà có thể bôi
xóa đi được những phiền não đen tối vốn nhuộm đậm từ lâu. Thế nên,
chúng ta cần phải luôn luôn liên tục theo dõi câu niệm Phật (niệm Phật
tức niệm tự tâm Phật) Phật niệm liên tục mãi mãi thì chúng sanh niệm
không còn, thế nên dù có bận rộn gì cũng chỉ gián đoạn được thinh niệm
mà thôi, chớ làm sao ràng buộc được tâm niệm bên trong của chúng ta? Khi
mà tâm chúng ta thuần một Phật niệm thì tạp niệm đâu còn? Tạp niệm bặt
dứt (gió dừng) tâm không còn bị gì làm chao động nữa, bấy giờ tự tâm an
nhiên tại định (nước lặng) thì muôn tượng hiện bày, không thiếu sót một
mảy may, bấy giờ vạn pháp đương nhiên hiển lộ, tự tâm quán chiếu một
cách thần diệu phi thường (huệ). Hành giả thật hành pháp môn niệm Phật
được như đây quả đã đạt đến viên mãn cứu cánh rồi vậy.
35. TỨC THIỀN TỨC PHẬT
Hoặc
khởi từ một câu thoại đầu gọi là tham thiền, hoặc ngồi mà dứt niệm gọi
là tọa thiền. Tham hay tọa đều là Thiền cả, Thiền hay Phật đều là tâm
cả. Thiền tức là Thiền của Phật. Phật tức là Phật của Thiền. Pháp môn
niệm Phật đâu có gì ngại với pháp tham thiền, tọa thiền? Vả lại, người
tham thiền có thể dùng bốn chữ A Di Ðà Phật làm một câu thoại đầu, niệm
đến, niệm lui, niệm xuôi, niệm ngược, trở lại, xây qua không rời đương
niệm, mặc dù không nói tham thiền, mà thiền ở trong đó rồi. Người tọa
thiền cần phải đến giai đoạn một niệm tương ưng, hoát nhiên như vinh vào
hỗ hư không, mới là Ðắc thủ. Niệm Phật đến lúc nhứt tâm bất loạn, không
phải là tương ưng là gì?
Niệm
đến lúc tâm không, không phải vĩnh viễn tương ưng sao? Trong lúc niệm
Phật, không hôn trầm, không tán loạn, chỉ, quán, định, huệ mỗi niệm viên
thành; nếu muốn tìm thiền, thiền ở đâu nữa?
Lời phụ giải:
Thiền
tức Tịnh vì Thiền hay Tịnh đều cầu đạt mục đích nhứt tâm bất loạn,
phương tiện tuy hai, nhưng kết quả vẫn một, mà Thiền thì khó thập bội!
Trong
Quy ngươn trực chỉ có đoạn thí dụ người tu các pháp môn khác, như thiền
v.v... mà đi đến mục đích, khác nào như con kiến bò lên núi cao, như
con mọt đục từng mắt tre mà lên, từ gốc cho đến tận ngọn. Pháp môn Tịnh
độ niệm Phật thẳng tắt nhờ tha lực, như thuyền thuận buồm, xuôi nước,
như con mọt đục ngang cây tre mà ra, còn gì nhanh chóng hơn!
36. TỨC GIỚI TỨC PHẬT
Trì
giới luật của Phật để trị thân, trì danh hiệu của Phật để trị tâm. Trì
lâu thì thân thuần, niệm lâu được tâm không. Tánh của niệm hay tánh của
giới không hai; luôn luôn trì giới thì tội lỗi không hiện, luôn luôn
niệm Phật, thời lúc lâm chung đánh tan được quỷ môn quan, vượt khỏi ba
cõi. Nếu giữ giới đã có công phu, liền đem công đức này hồi hướng Tây
phương, chắc chắn được về trung phẩm. Còn như chưa có thể giữ trọn cả
hai, thời nên phải siêng niệm Phật, như cứu lửa cháy đầu.
Lời phụ giải:
Trì
giới cốt làm cho tự tâm thanh tịnh, vì không gây tội lỗi, không có hối
hận. Niệm Phật cũng cốt cho thanh tịnh tự tâm. Vậy nên trì giới tức là
niệm Phật. Nhưng niệm Phật là phương tiện thiết yếu hơn khi người chưa
giữ giới được trọn vẹn. Thế nên ta hãy cấp tốc niệm Phật, để cho tâm
tịnh rồi thì tự nhiên giới được thanh tịnh.
37. TỨC GIÁO TỨC PHẬT
Một
Ðại tạng kinh đều từ tâm khởi, tâm nếu không Phật thì giáo lý cũng
luống mà thôi. Nhưng có tâm ai mà không Phật? Chỉ vì tự mình không niệm
vậy. Người có học giáo lý, ắt có coi kinh Lăng Nghiêm, mà có coi kinh
Lăng Nghiêm ắt có kẻ chê đức Thế Chí mà trọng đức Quán Âm, một chút chấp
trước đó cũng đủ kết thành nguồn gốc sanh tử, dù học hay, thấy xa, hiểu
rộng, chẳng qua chỉ giúp cho cái mầm khổ thêm tươi mà thôi, không giúp
ích được gì trong việc thoát ly sanh tử. Xin hãy mau bỏ đi, bỏ tất cả,
để tâm niệm Phật cầu vãng sanh Tây phương, gần gũi đức Di Ðà. Còn nếu
không buông bỏ được thì hãy đem công đức học kinh, giảng thuyết này hồi
hướng Tây phương, phát bốn điều thệ nguyện rộng lớn, cũng được kết quả
không luống. Thoảng hoặc hoằng dương được pháp môn Tịnh Ðộ, nói cho
người ta hiểu công đức niệm Phật, thời nháy mắt, động niệm đều là trang
nghiêm Tịnh Ðộ, thế thì được vãng sanh thượng phẩm đâu còn nghi gì?
Lời phụ giải:
Trong
kinh Lăng Nghiêm, đức Thế Chí tu niệm Phật Tam muội đắc nhập viên
thông, còn đức Quán Thế Âm tu nhĩ căn mà được chứng viên thông, hai vị
đồng chứng viên thông như nhau. Nhưng vì theo căn tánh tương hợp của
chúng sanh Ta bà mà khi vâng lời Phật tuyển trạch viên căn, đức Văn Thù
phải chọn nhĩ căn của đức Quán Âm là đệ nhứt, nếu không hiểu hoặc chấp
giáo, cho là đức Quán Âm hơn đức Thế Chí, tất sai với tinh thần giáo
điển. Thế là vì chấp giáo lý mà có sanh phân biệt hơn kém do cái ngã
kiến sẵn có tự hồi nào đến giờ, làm cho ta mê mờ dễ sanh dị kiến, dễ tạo
điều khổ ngay trong tự tâm và cái khổ vẫn gắn bó mãi mãi đến vô tận.
Thật nguy hiểm thay!
Học,
hiểu, giảng hay, nói giỏi mà cứ bị gò bó trong sự học, hiểu, đầu óc
phải bị chi ly, phiền toái trong văn tự, ngôn ngữ, có khác gì con tằm
mắc trong cái kén, rồi cũng đến chết ở trong đó mà thôi!
Chi
bằng đem hết thân mạng để trang nghiêm Tịnh Ðộ, hay dùng cách lão thật
niệm Phật để cầu sanh Cực lạc còn hơn, cứ nói thánh nói tướng, bàn ra
tán vào, luận dọc luận ngang đều làm rối đạo niệm, không ích gì cho việc
thoát ly sanh tử cả!
Thoảng
hoặc tận dụng sở học, sở hiểu cùng tất cả sở năng ra xiển dương pháp
môn Tịnh Ðộ, hay rộng tán thán công đức niệm Phật, phương tiện diễn dụ
khắp ba căn đồng tu hành niệm Phật Tam muội, thời thật ngày vãng sanh về
Cực lạc không xa mấy đâu!
38. KHÔNG TRÌ MÀ TRÌ
Khi
vừa làm xong một việc gì, hay lúc nói dứt một lời nào, còn chưa kịp đá
động đến câu niệm Phật, nhưng bốn chữ Hồng danh của Phật đã nổi hiện lên
ngay. Ðây là trạng thái dễ thành Tam muội (chánh định).
39. TRÌ MÀ KHÔNG TRÌ
Trì danh niệm Phật không mỏi chán, khoan khoái lại càng khoan khoái hơn.
Trong
lúc niệm Phật, trì niệm bốn chữ thật rõ ràng, niệm đầu không lay động,
bốn chữ bỗng nhiên tạm dừng. Cũng không phải có cái niệm tức bốn chữ,
cũng không có cái niệm ngoài bốn chữ, như thế có thể tạm gọi là được
thắng cảnh, chớ chưa phải thật tâm không. Nhưng siêng năng niệm Phật,
cảnh này thường hiện, thời dần dần được tâm không. Nếu nhơn một niệm tâm
không liền bị hôn trầm thì gọi là không có Huệ.
Phải
biết rằng: tâm càng không thời niệm càng linh, tâm càng không thời niệm
càng tịnh, đem cái ta trong tâm Phật mà niệm Phật ở trong tâm ta, không
và bất không (có) đâu còn xứ sở? Ví như mặt trời, mặt trăng rực rỡ nơi
bửu cung, vòng quanh núi Tu Di, châu lưu chiếu thiên hạ.
Ôi! Còn gì bằng Diệu giác được viên minh!
Lời phụ giải: (cho cả hai pháp trên)
Niệm
Phật khi đã đến mức vô công dụng thì tự tại vô ngại, không cần dụng
công, không cần tác ý, không niệm mà vẫn không lìa niệm, có niệm cũng
không lìa thể vô niệm của tự tâm.
Như
khi chúng ta mới tập đi xe đạp, thì cả đầu, mình, hai tay, hai chân đều
như vận dụng tất cả, thế mà xe vẫn nghiêng ngả, lủi đây, lủi kia, quanh
qua lộn lại, thế mà khi ta đã thuần thục, tay không cần cầm, thân không
cần uốn, chân đạp tự nhiên, không dụng công gì mà chiếc xe chạy ngay đi
thẳng, không khó khăn như khi ta mới tập.
“Thế
thường vô nan sự, đô lai tâm bất chuyên,” ở trên đời không có gì là
khó, là không làm được, chỉ sợ ta không làm và có làm lại không bền chí,
thì chung qui việc gì cũng chẳng ra việc gì cả. Thế mới đáng ân hận!
40. CÔ THÂN NIỆM PHẬT
Tỳ
kheo tu hành không cần bạn lữ. Cảnh niệm Phật càng cô tịch càng hay!
Cao thấp tùy hợp, hưởn gấp tùy phần, cốt mong cầu được thành một khối
(nhứt tâm). Chính lúc bấy giờ nên biết: thân côi nhưng tâm không côi, vì
tâm của chư Phật và đức Di Ðà chưa từng tạm rời ta. Móng lòng là Phật
biết, khởi niệm thì Phật hay, lo gì cô tịch? Nếu Pháp môn Tịnh độ còn
điều gì chưa thiệt hiểu rõ, nên tìm kinh sách Tịnh độ mà coi. Như kinh A
Di Ðà, kinh Quán Vô Lượng Thọ, Thiên Thai Trí Giả Ðại Sư Thập Nghi
Luận, Thiên Như Hòa Thượng Tịnh Ðộ Hoặc Vấn, Ðại Hựu Thiền Sư Tịnh Ðộ
Chỉ Quy, Long Thơ Tịnh Ðộ Văn, Tịnh Ðộ Thần Chung, Tây Phương Công Cứ,
Tây Phương Xác Chỉ, Di Ðà Sớ Sao v.v... Ðây chỉ dẫn một ít điều rõ ràng
dễ hiểu, ngoài ra, còn nhiều thứ hay ho hơn, không kể xiết. Nên tìm học
hỏi nơi các bậc cao minh thông hiểu Tịnh độ.
Lời phụ giải:
Người
tu hành cần nơi vắng vẻ để cho tâm niệm được chuyên, nhứt là tu Tịnh
độ. Vì không nhứt tâm tức không thể sanh Tịnh độ, mà muốn nhứt tâm, đầu
tiên phải tìm chỗ yên lặng để lắng tâm tư. Như mặt nước có đứng lặng thì
muôn sao mới hiện, mà muốn mặt nước lặng không gì hơn là đừng có gió.
Khi đã nhập vào thể tịch của tự tâm tức đã nhập vào pháp giới thân của
chư Phật, bấy giờ không chỉ một ngọn đèn huệ của ta độc hiện, mà ta đã
hòa đồng cùng vô lượng vô biên huệ đăng của mười phương chư Phật, ai bảo
là cô tịch? Chỉ sợ ta dại dột không hiểu, mãi lo đua chen chốn trần tục
lao xao, đến khi bỏ xác thân này, lại một mình một bóng thui thủi vào
chốn địa ngục A tỳ, đây mới thiệt là cô tịch.
41. KẾT KỲ NIỆM PHẬT
Kết
kỳ là kết thất (7 ngày làm một kỳ), nếu kết kỳ một mình, thì nên sắm
bốn thứ để ăn: cơm khô, trái cây, gừng sống, dầu mè; tám thứ để dùng: lư
hương, đèn dầu, bồ đoàn (đồ để ngồi thiền), ghế dựa, áo bông (đồ ấm),
khăn hay mũ, thùng vệ sinh, giấy vệ sinh (giấy sút). Ngoài 12 thứ đó,
không để một thứ gì cả. Có thể trong suốt một tuần, không cho ai lai
vãng, để rảnh rang niệm Phật.
Nếu
có 5, 6 người đồng phát tâm kết kỳ niệm Phật, thời cần phải thỉnh một
vị hộ thất, lập qui điều cho nghiêm chỉnh dán ở trước cửa.
Tất
cả mọi cử động, uống ăn, hương hoa đăng quả, đều do vị hộ thất cung cấp
đầy đủ, thời những người đồng thất cũng có thể suốt trong bảy ngày chí
tâm niệm Phật. Nếu còn hạn cuộc trong tình chấp buộc ràng, chưa biết
những điều lợi hại của việc tu hành, thì đừng nên sớm khinh suất mà làm
việc này.
Lời phụ giải:
Sợ
không vào thất kết kỳ, thì bao nhiêu công chuyện ngoài đời, hoặc khách
khứa bạn bè, không sao được yên tịnh mà niệm Phật. Thế nên cần phải kết
kỳ, tức là lập thế trốn khách, trốn việc vậy. Những thứ cần dùng phải
sắm đủ, để khỏi phải bận tâm, không nghĩ móng, hoặc nhờ nhỏi người
ngoài, hầu yên tâm niệm Phật. Ðây chỉ nói đến bảy ngày, nhưng nếu người
nhiều phương tiện, hoặc rảnh rang, có thể kết hai hoặc ba thất v.v...
không hạn cuộc. Khi đã quyết định, thì đừng để ngoại sự chi phối, rồi
nửa chừng dở thất, nếu chưa hết kỳ mà vội mở cửa, thì thật là chua! Nên
biết rằng: người tu, càng tu nhiều ma càng khảo nhiều, nên không thể lơ
mơ được, bởi thế nên phải hiểu và phải nhận định kỹ trước khi làm, không
thì thua cuộc mà hỏng việc, lại để cười cho kẻ bàng quan.
42. TỤ HỘI NIỆM PHẬT
4,5
người hẹn nhau hội họp tu pháp niệm Phật. Trước hết phải đặt điều ước,
trật tự, sau mới bắt đầu niệm. Lúc đầu niệm thì một tiếng mõ một tiếng
niệm, một người xướng bao nhiêu người niệm theo, đều đều không nên so
le, lộn xộn mà làm loạn động tâm người đồng niệm.
(Pháp
này không kết thất như pháp trên, mà tùy phương tiện tu tập thế thôi,
bao nhiêu người cũng được, bao nhiêu ngày cũng không hạn cuộc.)
43. NIỆM PHẬT ÐỂ THÀNH TỰU CHO NGƯỜI
Hoặc
ở yên một chỗ niệm Phật mà cầu nguyện cho người, hoặc đồng với người
khác kết kỳ niệm Phật. Hoặc đem pháp môn niệm Phật chỉ dạy cho người
biết, hoặc cho người mượn sách Tịnh Ðộ mà xem, hoặc phá những mối nghi
lầm của người khác trong pháp môn này, hoặc khuyên người bền chí niệm
Phật, những việc ấy đều tốt và đều có công đức cả.
Nhưng
nếu người trong lúc lâm chung mà có mình đến hộ niệm, khiến cho người
bịnh luôn luôn nhớ câu niệm Phật, vừa nhớ vừa niệm, làm cho người ấy sau
khi tắt hơi rồi được vãng sanh về cõi Tây phương, đó là thành tựu pháp
thân huệ mạng cho người, công đức này lại còn thù thắng hơn.
(Pháp này không có gì là khó hiểu cả.)
44. KHI CÓ TAI NẠN NÊN NIỆM PHẬT
Phàm
lúc xảy ra tai nạn, mà nhớ phát tâm niệm Phật, tất có kỳ ứng (ứng
nghiệm lạ thường). Tuy rằng một nước bị can qua hay một làng bị dịch lệ,
mà niệm Phật để cầu, thì một người niệm một người an, trăm người niệm
trăm người an. Không phải Phật có lòng riêng, lúc nào cũng ở trong ánh
sáng bình đẳng, vô tâm mà ứng hiện. Vì sao? Vì động niệm thành tiếng tự
mình rõ biết hào quang sáng của đức Phật A Di Ðà trụ trên đỉnh đầu ta,
thời tự nhiên mỗi niệm đầy đủ, mỗi niệm bền chắc, mỗi niệm dài lâu, thời
hào quang của Phật chiếu đến gia hộ các vị thiện thần độ trì, tự mình
có thể lìa khỏi nạn tai, xin đừng chuyển niệm.
Lời phụ giải:
Có
người bảo: niệm Phật làm sao dứt được nạn này, nạn khác? Ðó là tại vì
mình không tha thiết, hay niệm mà lòng vẫn nghi ngờ, thì bao nhiêu đó
cũng chứng tỏ không đem kết quả tốt đến cho mình rồi. Nên hiểu rằng: Tâm
mình lúc bấy giờ chỉ nghĩ có một chuyện niệm Phật ngoài ra không nghĩ
gì khác, một niệm quên thân, một niệm an tâm ấy càng kéo dài, thì khổ
nào đày ải ta được? Câu “Linh tại ngã bất linh tại ngã” có ý vị lắm
thay! Một người rồi nhiều người bắt đầu niệm Phật tức là chuyển ác niệm
thành thiện niệm, thiện niệm ấy càng kéo dài thì tai nạn nào mà không
khỏi, tội khổ gì mà chẳng an?
Ngoài ra trong kinh ghi 10 điều lợi ích của sự niệm Phật, tôi xin kính ghi chép ra đây để quý vị tin mà cố gắng:
1. Thường được chư Phật ngày đêm hộ niệm, đức Phật A Di Ðà phóng quang nhiếp thọ.
2. Thường được 25 vị Ðại Bồ Tát như đức Quán Thế Âm thủ hộ.
3. Ngày đêm thường được chư thiên cùng đại lực thần tướng ẩn hình ủng hộ.
4. Tất cả Dạ xoa, ác quỉ, rắn độc, thuốc độc đều không thể làm hại.
5. Không bị những tai nạn: nước, lửa, đao, tên, gông, xiềng, lao ngục, giặc cướp, oan gia cùng các thứ chết dữ.
6. Những tội đã làm thảy đều tiêu diệt, những kẻ chết oan vì mình đều được giải thoát, không còn kết oán ràng buộc.
7. Ban đêm nằm ngủ thường thấy điềm lành, hoặc thấy sắc thân thắng diệu của Phật A Di Ðà.
8. Tâm thường vui vẻ, sắc thường tươi nhuận, khí lực đầy đủ, việc làm có kết quả tốt đẹp lợi ích.
9. Mọi người trông thấy đều vui mừng, cung kính hoặc lễ bái cũng như kỉnh Phật.
10.
Khi mạng chung tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện ra, được Tây Phương
Tam Thánh tiếp dẫn sanh về Tịnh độ hưởng sự an vui không cùng!”
45. NIỆM PHẬT TRONG LÚC CHIÊM BAO
Nguyện
lực bền chắc, công phu tinh nhuần, ban ngày giữ niệm khăn khăn, ban đêm
vẫn giữ niệm khư khư, thời trong giấc chiêm bao tự mình có thể niệm
Phật, đó là triệu chứng sắp vãng sanh, vậy phải giữ điều hòa và phải cố
gắng lên mãi, đừng lui đừng loạn.
Lời phụ giải:
Niệm
Phật đến giai đoạn này, thật đã khá tinh nhuần. Có nhiều người niệm
được ban đêm, ban ngày không, lúc thức niệm lúc ngủ không. Như vậy tất
còn gián đoạn, do công phu chưa thuần. Phải tập thế nào: luôn luôn giữ
niệm niệm Phật, dù khi thức hay lúc chiêm bao. Muốn tập điều này thì
trước khi đi ngủ hãy cố niệm Phật cho đến khi nào ngủ mòm mới thôi, lại
trước khi lên giường phải đánh thức tâm niệm Phật bằng cách tự dặn dò:
muốn thoát ly sanh tử không gì hơn ngươi phải luôn nhớ niệm Phật, dù khi
thức hay lúc ngủ. Mỗi hôm nhớ dặn thế, sẽ quen dần dần, tự nhiên có kết
quả. Quí vị muốn khuya thức dậy đúng giờ nên tập theo cách này: trước
khi đi ngủ phải dặn thành tiếng: “Ðúng 5 giờ (hay 4 giờ tùy) phải thức
dậy,” nói đôi ba lần như thế, sáng ra sẽ dậy đúng giờ, nhưng nên nhớ một
vài ngày đầu có khi bị xê dịch ít nhiều, vì ý niệm chưa thuần, nhưng
sau đó thi sẽ thức đúng dần dần, rồi thì đúng hẳn, mười hôm như một.
Ðiều này gọi là tập quen thành lệ chớ không có gì lạ cả.
46. NIỆM PHẬT TRONG LÚC BỊNH
Bịnh
là cơ sắp chết, chết là mối quan hệ của các thánh, phàm, tịnh, uế.
Trong lúc bịnh (bịnh nặng) phải khởi tưởng niệm là sẽ chết (để không sợ
chết). Phải siêng niệm Phật, quyết định chờ chết, ắt có hào quang của
Phật đến tiếp dẫn, làm toại chí nguyện vãng sanh của ta. Nếu trong lúc
bịnh, dừng không niệm Phật thì tất cả sự ái luyến sợ sệt, phiền não hiện
lên rần rần, các thứ tạp niệm nhứt tề nổi dậy. Thế thì con đường sanh
tử lấy gì cứu vớt? Ngày xưa có một vị Tăng bịnh nặng, rên thành tiếng
“Ôi cha.” Bỗng tự biết người tu lúc nghĩ nhớ đến đạo mà lại rên như thế
là sai, liền khởi niệm A Di Ðà Phật. Nhưng cơn đau không chịu dứt, nên
một tiếng rên “ôi cha” là một tiếng niệm Phật tiếp theo, ngày đêm không
dứt. Khi bịnh lành, thầy bảo mọi người: “Trong lúc bịnh tôi rên thành
tiếng “ôi cha” và chen một tiếng niệm A Di Ðà Phật, hôm nay bịnh lành,
tiếng A Di Ðà Phật hiện còn mà tiếng rên “ôi cha” chẳng biết biến đâu.”
Hy hữu thay! Ðây là trường hợp tinh tấn trong lúc bịnh vậy.
Lời phụ giải:
Ở đời, có ai khỏi chết, thế mà có kẻ sợ chết đến thành đốn hèn, hay tham sống đến quên chết, thật khổ thay!
Sợ
chết rồi cũng không thoát chết, thì có sợ cũng bằng thừa. Ngày xưa có
nhiều vị làm những chuyện có thể gọi là đáng buồn cười, thế mà thật là ý
vị: Sắm sẵn một cái hòm (quan tài), đêm đêm vào ngủ trong ấy, thật là
một việc mà người đời ai cũng sợ. Một người thân, rất thân, vừa mới dứt
hơi có kẻ đã không dám léo hánh đến gần, đừng nói dở mặt để xem. Vào ngủ
trong hòm, cho biết rằng vị ấy coi cái chết như một giấc ngủ, không có
gì đáng sợ, hơn nữa để thấy rằng: Cái chết nó sẵn sàng đến với ta bất cứ
lúc nào, để mà không sợ chết, chỉ có lo vun quén cho mình một kiếp sống
không bao giờ chết: con đường giải thoát. Vậy chúng ta hãy cố mà niệm
Phật, đừng sợ chết, vì cái chết của một xác thân này chỉ là một sự cởi
một cái lốt tạm của vô lượng thân vô thường biến chuyển về sau, nếu ta
chưa được giải thoát!
47. PHÚT LÂM CHUNG NÊN NIỆM PHẬT
Phút
lâm chung nên cố gắng ghi nhớ 4 chữ A Di Ðà Phật đừng để sót quên. Nếu
niệm lớn được thời niệm, còn không niệm lớn được thì niệm nhỏ. Trường
hợp lớn nhỏ đều không niệm được (vì quá mệt) thì nên ghi khắc thầm tưởng
4 chữ trong thâm tâm, đừng cho quên sót.
Những người hầu hạ chung quanh phải thường nhắc nhở khuyến khích người bịnh nhớ Phật, niệm Phật.
Phải
biết rằng: trong nhiều đời, nhiều kiếp, vì ta bị loạn niệm trong lúc
này (gần chết) mà phải luân hồi mãi trong vòng ba cõi. Tại sao? Vì sanh
tử, luân hồi đều do nhứt niệm làm chủ. Nếu nhứt niệm chuyên chú niệm
Phật, thì thân tuy chết nhưng tâm thần không tán loạn, liền theo nhứt
niệm ấy vãng sanh Tịnh độ.
Vậy nên hãy nhứt tâm ghi nhớ bốn chữ A Di Ðà Phật đừng quên!
Lời phụ giải:
Người
tu Tịnh độ khi gần mạng chung, nên phải dự tính rằng: Phút lâm chung là
điều quan trọng cuối cùng của đời người tu hành niệm Phật, nếu giữ gìn
không kỹ, vận dụng không khéo, thì chẳng những luống uổng công phu trong
một đời là vẫn mang cái khổ lụy luân hồi sanh tử, không sao tránh khỏi.
Huống chi thân ta đây do nơi nghiệp thức, nhờ chút tinh cha, huyết mẹ
tạo nên, hễ có hình phải có hoại, có sanh tất có tử, thật không vĩnh
viễn tồn tại.
Còn
cõi ta ở đây, đầy đủ uế trược, ác hiểm, cũng từ nơi vọng nghiệp nhơ bẩn
mà sanh, không phải là cảnh thanh tịnh, an nhàn đáng cho ta quyến
luyến. Ngày nay ta nhứt tâm niệm Phật cầu khi bỏ thân này được vãng sanh
Tây phương Cực lạc, chẳng khác nào bỏ áo cũ dơ, mặc áo mới sạch, thì
còn mong gì hơn nữa.
Nếu
suy nghĩ, dự tính được như thế, thì đến khi sắp chết, trong lòng không
còn tham luyến sắc thân, ngoài không còn đắm mến cõi đời, nhứt tâm chánh
niệm trực vãng Tây phương, dù sức muôn trâu cũng không kéo lại được.
48. PHÁT NGUYỆN SÁM HỐI NIỆM PHẬT
Than
ôi! Trong đời có thiếu gì kẻ không biết niệm Phật, có người cho niệm
Phật là dị đoan nên không chịu niệm, người xuất gia cho niệm Phật là
việc tất nhiên của mình phải làm, chớ không biết tại sao phải niệm, kẻ
cuồng huệ biết có Phật, nhưng lại không khứng niệm, kẻ ngu si không biết
Phật nên không niệm. Ðây là đem so sánh, còn có những ngu phu, ngu phụ,
nghe nói lý nhơn quả cũng biết niệm Phật, nhưng lại mong cầu được phước
báo đời sau, vẫn không thoát khỏi hột giống luân hồi.
Tìm
kẻ thật vì đường sanh tử mà niệm Phật trong trăm người họa chăng chỉ có
một hai! Nên biết rằng, người đã niệm Phật, tức xứng hợp với lòng từ
của Phật, phát thệ nguyện rộng lớn tế độ chúng sanh. Tất cả tội cấu oan
khiên thảy đều sám hối. Tất cả những công đức dù nhỏ dù lớn đều đem hồi
hướng Tây phương, như thế mới là CHÁNH NHƠN NIỆM PHẬT.
Lời phụ giải:
Làm
một việc gì đều phải có mục đích và tất nhiên phải có đạt đến kết quả
của nó. Một việc niệm Phật, siêu xuất luân hồi, vãng sanh Tịnh độ, với
mục đích đã nhắm và với kết quả sẽ đạt thật là cao siêu và thật tế, thời
hành nhơn ắt phải rõ thấu và tận dụng tri giác của mình, đâu phải những
điều huyễn hoặc, vu vơ hay thiển cận mà khinh hốt.
Nhận
thức đúng đắn điểm này thời việc làm ắt không đến đỗi luống. Thiệt lòng
niệm Phật cầu thoát sanh tử thời cầu mong phước báo hữu lậu ở thế gian
làm gì? Vạn vật vô thường của cõi thế gian nào phải là chỗ gởi thân vĩnh
viễn của ta đâu? Nhưng đó chẳng qua vì hoặc nghiệp, phiền não nhiều
kiếp sâu dày, mặc dầu cũng có hiểu biết đấy, nhưng lại phải chướng dày
huệ mỏng, nên rồi phải tự cam với số phận hẩm hiu. Vậy khi đã rõ thông
và phát tâm niệm Phật thì phải hết lòng, hết sức sám hối nguyện tiêu trừ
tất cả chướng cấu trần lao để lòng thanh thoát, không còn bị những ảo
ảnh gạt lường, mới mong đạt thành sở nguyện.
* Chú thích
(1) Trời Hữu đảnh là cõi trời cao tột cảnh trời Sắc giới.
(2) Phong luân: Sắc gió dưới đáy trái đất. Nhờ sức gió mạnh quay tít không ngừng, gây một sức mạnh vô ngần để duy trì thế giới.
(3) 6 căn, 6 trần, 6 thức.
(4) Khi hạ thủ công phu mà đạt được kết quả thì gọi là đắc thủ.