Chúng ta lễ lạy để tịnh hóa mọi tình huống trong quá khứ khi 
ta không kính trọng người khác, bận tâm với những thỏa mãn riêng tư và 
bản thân ta làm nhiều hành vi bất thiện.
  
  
Sự lễ lạy giúp cho ta nhận thức rằng có điều gì đó còn có ý nghĩa 
hơn bản thân ta. Theo phương cách này chúng ta tịnh hóa tánh kiêu mạn mà
 ta từng tích tập trong vô lượng kiếp khi suy nghĩ: “Ta đúng,” “Ta tốt 
hơn những người khác,” hay “Ta là người quan trọng nhất.” Trải qua vô 
lượng kiếp chúng ta đã phát triển sự kiêu mạn là nguyên nhân của những 
hành động của ta và đã tích tập nghiệp là một nguồn mạch của những khổ 
đau và những vấn đề của ta. Mục đích của sự lễ lạy là để tịnh hóa nghiệp
 này và chuyển hóa tâm ta. Sự lễ lạy giúp ta nương tựa vào điều gì đó có
 ý nghĩa hơn sự kiêu mạn và chấp ngã của ta. Theo cách này, nhờ sự tràn 
trề lòng xác tín và sùng mộ, chúng ta thoát khỏi mọi sự ta từng tích tập
 do tánh kiêu mạn. 
  
  
2. Sự Tịnh hóa Thân, Ngữ, và Tâm
  
  
Khi chúng ta lễ lạy ta tác động lên bình diện thân, ngữ, và tâm. 
Kết quả của việc thực hiện những lễ lạy là một sự tịnh hóa hết sức mạnh 
mẽ và triệt để. Sự thực hành này làm tan biến mọi điều bất tịnh, bất 
luận chúng thuộc loại nào, bởi chúng hoàn toàn được tích tập qua thân, 
khẩu, và tâm của chúng ta. Sự lễ lạy tịnh hóa tất cả ba bình diện. Qua 
phương diện vật lý (thân) của việc lễ lạy chúng ta tịnh hóa thân thể ta.
 Ta cúng dường thân ta cho Tam Bảo và tất cả chúng sinh, ước mong tất cả
 những nguyện ước của họ được hoàn thành. Nhờ việc lập lại thần chú quy y
 và ý nghĩa chúng ta gán cho nó, chúng ta tịnh hóa ngữ của ta. Nhờ sự 
xác tín nơi Tam Bảo ta phát triển thái độ giác ngộ và lòng sùng mộ. Bởi 
chúng ta tỉnh giác về những phẩm tính toàn hảo của sự quy y (nương tựa) 
và cúng dường mọi sự cho nó, những ngăn che trong tâm ta biến mất. Khi 
thân, ngữ, và tâm ta được tịnh hóa ta nhận thức rằng điều mà lúc đầu ta 
cho là thân ta thì thực sự là một hiển lộ của sự Giác ngộ, là lòng bi 
mẫn tích cực. Điều mà lúc đầu ta nghĩ là ngữ của ta thì thực sự là sự 
biểu lộ của sự Giác ngộ trên bình diện của sự hỉ lạc; tâm ta là bình 
diện chân lý của sự Giác ngộ. Chúng ta có thể nhận ra thực tại giác ngộ 
của thân, ngữ, và tâm ta - sự tràn đầy chân lý trí tuệ của chúng mà lúc 
ban đầu ta không ý thức được. Chúng ta nhận thức rằng thực hành này có 
thể dẫn dắt ta tới mục tiêu của ta là sự Giác ngộ, bởi ba bình diện biểu
 lộ trạng thái của một vị Phật xuất hiện tức thì sau  khi ba bình diện 
của sự hiện hữu của ta – thân, ngữ, và tâm – được tịnh hóa. Chúng ta 
không phải kiếm tìm sự Giác ngộ ở nơi nào khác. Chúng ta không phải săn 
đuổi bất kỳ sự chứng ngộ viên mãn nào. Ba bình diện của sự Giác ngộ là 
những phẩm tính bẩm sinh chân thực của thân, ngữ, và tâm của chính ta. 
Trước đây ta đã không nhận ra điều đó. Sự lễ lạy giúp chúng ta khám phá 
ra nó.
  
  
3. Những Lợi ích Vật lý của việc Lễ lạy
  
  
Việc lễ lạy ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự quân bình và hài hòa trong 
thân thể ta. Những sự tắc nghẽn trong các kinh mạch năng lực của thân 
thể từ từ tan biến. Điều này giúp cho ta tránh được các bệnh tật, sự 
thiếu hụt năng lực, và những vấn đề khác. Tâm ta trở nên trong trẻo hơn,
 khả năng hiểu biết của ta tăng trưởng.
  
  
Trạng thái của Tâm trong khi Lễ lạy
  
  
Chúng ta nên lễ lạy với sự tràn trề lòng xác tín, hoan hỉ và động lực để làm lợi lạc cho người khác.
  
  
1. Sự xác tín
  
  
Chúng ta nên có sự xác tín nơi những phẩm tính toàn hảo của Tam 
Bảo và tin chắc rằng sự ban phước của Tam Bảo có thể giải trừ những ngăn
 che của tâm ta. Sự ban phước có thể xuất hiện và sự tịnh hóa có hiệu 
quả khi lòng xác tín của ta nơi thân, ngữ, và tâm gặp gỡ những phẩm tính
 chuyển hóa của thân giác ngộ, ngữ giác ngộ và tâm giác ngộ – những 
nguồn mạch của sự quy y. Nếu chúng ta không có sự xác tín và không thể 
mở lòng ra đối với Tam Bảo thì những sự lễ lạy sẽ chỉ là một trò phô 
diễn.
  
  
2. Động lực làm Lợi lạc Người khác
  
  
Khi chúng ta lễ lạy ta nên thấu hiểu rằng những thiện hạnh là suối
 nguồn hạnh phúc của tất cả chúng sinh. Lễ lạy là một điển hình tốt đẹp 
của sự thật này. Khi ta thực hành với thân, ngữ và tâm ta, ta cúng dường
 năng lực của ta cho người khác khi ước muốn nó mang lại cho họ hạnh 
phúc. Ta nên hoan hỉ về sự thật này và thực hành lễ lạy với sự hỉ lạc. 
  
  
Thực hành Đúng đắn
  
  
1. Quán tưởng Cây Quy y
  
  
Ta quán tưởng toàn thể cây quy y trong không gian trước mặt chúng 
ta. Trước tiên ta quán tưởng Đức Dorje Chang (Kim Cương Trì) – vị Lạt Ma
 tượng trưng cho mọi suối nguồn của sự quy y. Ta quán tưởng Lạt Ma là 
trung tâm của cây quy y. Ta nên hoàn toàn tỉnh giác rằng Dorje Chang là 
vị Thầy của ta và Ngài là tâm của Lạt Ma của ta. Ta nghĩ tưởng về Dorje 
Chang để quả quyết rằng sự hiển lộ của bản tánh của tâm không bị ô nhiễm
 bởi những tư tưởng quen thuộc của ta. Để giúp ta duy trì cái thấy thanh
 tịnh, cái thấy của trí tuệ, chúng ta quán tưởng  thân tướng thanh tịnh 
toàn hảo này. Cùng lúc đó ta duy trì sự tỉnh giác rằng Dorje Chang là 
tâm của Lạt Ma của ta. Mọi sự xuất hiện trong không gian trước mặt ta 
thì giống như một cầu vồng hay một sự phản chiếu của một tấm gương; nó 
không phải là một sự vật. Nếu ta gặp khó khăn trong việc quán tưởng toàn
 thể cây quy y thì ta nên có sự xác tín rằng tất cả các đối tượng quy y 
thực sự ở trước mặt ta cho dù ta không thể lưu giữ các đối tượng ấy 
trong tâm ta.
  
  
2. Sự Tỉnh giác về Bản thân ta và Những Người khác
  
  
Chúng ta không đơn độc trong khi thực hành. Ta được vây quanh bởi 
toàn thể chúng sinh đầy khắp toàn thể vũ trụ. Ta quán tưởng cha ta ở bên
 phải và mẹ ta ở bên trái ta. Khi ta đứng giữa cha mẹ ta trong đời này 
ta nhận thức rằng mỗi một và mọi chúng sinh không loại trừ ai từng là 
cha mẹ của ta trong đời trước nào đó. Điều này giúp ta nhớ lại thiện tâm
 của tất cả cha mẹ của ta, tất cả chúng sinh, là những người đã giúp đỡ 
ta suốt trong vô lượng kiếp.
  
  
Ta quán tưởng những người ta coi là những kẻ thù của ta ở trước 
mặt ta, giữa cây quy y và chúng ta. Ta nghĩ về những người gây ra cho ta
 những vấn đề và làm trở ngại việc thực hiện những chương trình của ta. 
Tất cả những người này rất quan trọng bởi họ giúp ta phát triển những 
phẩm tính như sự nhẫn nhục và lòng bi mẫn. Chúng ta thường muốn tránh 
những người như thế. Ta cố giữ một khoảng cách với họ. Ta không muốn 
nghĩ về họ. Việc đặt họ ở trước mặt ta giúp cho ta không quên họ. Việc 
đối xử với những kẻ thù theo cách như thế bảo vệ cho ta không bất kính 
đối với họ.
  
  
Chúng ta tập trung sự chú tâm vào cây quy y. Ta tin tưởng rằng sự 
quy y có thể giải thoát tất cả chúng sinh khỏi nỗi đau khổ của sinh tử 
và có thể che chở ta khỏi bị phiền não mà nỗi khổ này gây ra. Trong một 
tâm thức như thế, được vây quanh bởi tất cả chúng sinh, chúng ta bắt đầu
 lập lại thần chú quy y. Mọi sự quanh ta bắt đầu rung động. Ta kinh 
nghiệm ánh sáng mạnh mẽ phát ra từ cây quy y. Ánh sáng chiếu sáng chúng 
ta do bởi lòng sùng mộ của riêng ta. Điều này làm tâm thức chúng ta rộng
 mở hơn nữa. Sau đó ta bắt đầu lễ lạy. Chúng ta là những Đạo sư của buổi
 lễ và hướng dẫn toàn bộ sự thực hành. Việc lễ lạy của ta lập tức gây 
cảm hứng khiến tất cả chúng sinh bắt đầu thực hành tương tự. Ta nghe tất
 cả chúng sinh lập lại thần chú và thực hành lễ lạy. Những sự rung động 
này đầy ngập toàn thể vũ trụ.
  
  
Việc duy trì một thị kiến như thế thay vì chỉ tập trung vào bản 
thân ta mở rộng hoạt động của ta. Ở một mặt nó mang lại cho ta sức mạnh,
 ở mặt khác nó cho ta động lực để thực hành. Tất cả chúng sinh cùng lễ 
lạy với chúng ta mang lại cho ta sự khích lệ. Khi kinh nghiệm lượng năng
 lực khổng lồ từ tất cả chúng sinh đang lễ lạy, chúng ta cảm thấy tin 
tưởng và sùng mộ Tam Bảo hơn nữa. Cảm giác “cưỡi ngựa cùng đám đông” 
giúp chúng ta nhanh chóng hoàn thành việc lễ lạy và trải nghiệm hạnh 
phúc lớn lao trong thời gian thực hành.
  
  
3. Ý nghĩa Tượng trưng của Mỗi Yếu tố trong Hành vi Lễ lạy
  
  
Để mang lại cho việc thực hành của ta một tầm kích tối thượng 
chúng ta nên chú ý tới ý nghĩa tượng trưng của một lễ lạy. Khi đôi bàn 
tay chắp lại của ta chạm vào trán, ta khẩn cầu các đối tượng quy y ban 
phước của thân các ngài. Đồng thời ta quán tưởng rằng sự ban phước của 
thân giác ngộ của các ngài chiếu tỏa vào ta, xuyên qua thân ta và làm 
tan biến những che chướng của nó. Sau đó đôi bàn tay chắp lại của ta 
chạm vào cổ họng. Chúng ta khẩn cầu sự ban phước của ngữ. Đồng thời ta 
nghĩ tưởng rằng sự ban phước của ngữ giác ngộ của các ngài phát ra từ 
những đối tượng quy y và tịnh hóa mọi che chướng mà ta từng tích tập qua
 ngữ của ta. Trong phương cách như thế ta thoát khỏi những che chướng 
này. Khi đôi bàn tay ta chạm vào tim ta khẩn cầu các đối tượng quy y ban
 phước của tâm giác ngộ của các ngài. Nó giúp ta thoát khỏi mọi ngăn che
 và những tà kiến trong tâm ta. Ta tin tưởng rằng mọi ước muốn xấu xa ta
 chất đầy tâm thức ta từ vô thủy hoàn toàn được tịnh hóa. Ta nên nghĩ 
rằng ta đang nhận sự ban phước trọn vẹn của thân, ngữ, và tâm giác ngộ 
từ Tam Bảo. Nhờ năng lực của sự ban phước này, mọi ngăn che, nghiệp xấu,
 và những khuynh hướng tiêu cực trong thân, ngữ, và tâm ta được tịnh 
hóa. Chúng ta hoàn toàn thanh tịnh và bất khả phân với thân, ngữ, và tâm
 của Lạt Ma và Tam Bảo.
  
  
Khi năm điểm (hai đầu gối, hai bàn tay, và trán) của thân ta chạm 
mặt đất ta nên nhận thức rằng năm cảm xúc phiền não – tham, sân, si, 
kiêu ngạo và ganh tị – ra khỏi thân ta và biến mất trong trái đất. Theo 
phương cách như  thế chúng ta kinh nghiệm sự tịnh hóa trọn vẹn.
  
  
Hai phương diện của sự lễ lạy, việc làm tan biến những độc chất 
của tâm và nhận sự ban phước của Tam Bảo, tạo nên sự chuyển hóa tham, 
sân, si, kiêu ngạo và ganh tị thành năm trí tuệ tương ứng. Ta nên xác 
tín rằng sự chuyển hóa thực sự xảy ra, tin rằng ta có khả năng bẩm sinh,
 tự nhiên để phát triển những trí tuệ này.
  
  
Phương diện tượng trưng này của sự lễ lạy sẽ chỉ làm việc nếu ta 
có sự xác tín. Sự xác tín của ta có thể mang lại cho ta sự tịnh hóa vĩ 
đại này. Việc thực hành mà không có sự xác tín thì giống như bài tập thể
 dục nhịp điệu.
  
  
4. Sự quan trọng của Lòng Sùng mộ
  
  
Càng lễ lạy thì lòng sùng mộ của ta sẽ càng tăng trưởng. Cuối cùng
 ta sẽ đạt tới chỗ không còn nghĩ rằng thân, ngữ, và tâm ta khác biệt 
với thân, ngữ, và tâm của Tam Bảo. Những sự lễ lạy mang lại một kết quả 
kỳ diệu; chúng là suối nguồn của một sự ban phước hết sức mạnh mẽ và một
 sự tịnh hóa lớn lao. Ta không nên nghĩ rằng việc lễ lạy chỉ bao gồm một
 hoạt động của thân thể ta. Sự ban phước và tịnh hóa xuất hiện chủ yếu 
là bởi lòng sùng mộ.
  
  
5. Sự Tăng trưởng Sức mạnh của việc Thực hành
  
  
Ta thực hành với một tâm thức mở trống. Ta không nên nghĩ rằng ta 
là người duy nhất lễ lạy. Tất cả chúng sinh đang thực hành lễ lạy cùng 
chúng ta. Ta không phải giới hạn tư tưởng khi chỉ nghĩ tới bản thân ta. 
Ta không nên tự khẳng định bằng cách nghĩ: “Tôi đang lễ lạy.”  Nếu nghĩ 
như thế ta tích tập tiềm năng tốt lành tương ứng với hành động đang lễ 
lạy. Nếu ta nghĩ rằng tất cả chúng sinh đang thực hành lễ lạy cùng ta, 
tiềm năng tốt lành mà ta tích tập sẽ còn to lớn hơn nữa. Khi đang thực 
hành lễ lạy ta nên nghĩ rằng một trăm hóa thân của ta đang lễ lạy cùng 
với ta. Nếu ta có thể quán tưởng thì thực hành của ta sẽ mạnh mẽ hơn. Ta
 không nên tính thêm các lễ lạy nếu ta quán tưởng có thêm chúng sinh 
đang lễ lạy cùng ta. Đây chỉ là một trong những phương pháp đặc biệt của
 Kim Cương thừa trợ giúp thực hành của ta được mạnh mẽ. 
  
  
6. Sự Nối kết Lễ lạy với việc Làm An định Tâm
  
  
Sau một lát thân thể ta sẽ mỏi mệt. Đây là giây phút ích lợi để 
thực hành an định tâm. Khi thân và tâm mệt mỏi, sự tham luyến tăng 
trưởng. Nếu ta ngưng lễ lạy một lát thì tâm ta tự nó sẽ an tĩnh một cách
 tự nhiên mà không cần phải dụng công. Sau một lát thân và tâm ta lại 
cảm thấy muốn nghỉ ngơi, tâm ta trở nên xao động. Đây là dấu hiệu bắt 
đầu lại việc lễ lạy. Khi chúng ta luân phiên thay đổi sự lễ lạy và an 
định tâm thì ta có thể thực hành không ngừng nghỉ.
  
  
Tiếp cận nỗi Khổ đau
  
  
Đôi khi ta có thể kinh nghiệm những khó khăn trong việc thực hành 
lễ lạy. Sự đau đớn và mệt nhọc sẽ xuất hiện trên đường đi của ta. Luôn 
luôn có một vài mối quan tâm: đau đớn ở đầu gối, khuỷu tay, lưng dưới, 
mọi nơi. Không có lý do gì phải nhụt chí bởi điều đó hay mất sự xác tín ở
 việc thực hành. Ta cũng không nên làm mạnh mẽ thêm cảm xúc bằng cách tự
 nói: “Tôi đau đớn quá, tôi cảm thấy rất yếu.” Nếu làm thế chúng ta hoàn
 toàn tự làm ngăn trở mình. Ta mất đi khả năng hành động. Khi sự đau đớn
 được cho phép “có quyền,” nó có thể trở thành một chướng ngại thực sự 
trên con đường thực hành xa rộng hơn nữa của ta. Ta nên sử dụng mọi kinh
 nghiệm khó chịu, dù là thuộc tinh thần hay thể xác, như một phương tiện
 để giác ngộ. Những kinh nghiệm như thế nên khích lệ chúng ta hướng tới 
nỗ lực to lớn hơn trên con đường của ta.
  
  
Mọi sự ta kinh nghiệm phụ thuộc vào trạng thái tâm của ta. Nếu ta 
muốn kinh nghiệm những sự việc một cách khác biệt thì ta phải thay đổi 
trạng thái tâm. Nếu ta sắp xếp để chuyển hóa một cách hiệu quả nỗi đau 
khổ của ta thành một kinh nghiệm tích cực và lợi lạc thì nỗi khổ sẽ hoàn
 toàn biến mất không để lại dấu vết nào. Điều này sẽ cho ta thêm hạnh 
phúc và hỉ lạc.
  
  
Việc lễ lạy là một phương cách tích tập tiềm năng thực sự tốt 
lành. Đó là một phương pháp dễ dàng và hiệu quả để tịnh hóa những hành 
vi tiêu cực của chúng ta trong quá khứ. Ngược lại, nếu vì đau đớn và mệt
 nhọc mà chúng ta tiếp tục lễ lạy trong sự chán nản thì sự tịnh hóa đích
 thực không xảy ra.
  
  
Những Kỹ thuật để Làm việc với những Kinh nghiệm Khó chịu
  
  
1. Sự giảm bớt nghiệp
  
  
Chúng ta không nên nghĩ rằng đau khổ là một điều hết sức trầm 
trọng. Ta nên nhớ rằng đau khổ chỉ là nghiệp, nó vô thường như mọi sự 
khác. Đau khổ có lúc chấm dứt. Khi nghiệp của ta chín mùi ta nên an trụ 
thư thản và chú ý tới dòng chảy tự nhiên này của những sự việc. Nếu 
chúng ta sắp xếp để làm đầy thực hành của ta với sự hiểu biết về lẽ vô 
thường của nghiệp thì tự nó sẽ tan biến. Nghiệp không phải là cái gì 
chúng ta phải chấp nhận hay từ bỏ. Nó giống như việc ta bắt buộc phải 
thanh toán hóa đơn là điều tự động xuất hiện. Khi ta đã trang trải những
 món nợ của ta, nghiệp tự nó biến mất và không có gì phải từ bỏ.
  
  
2. Sự Tịnh hóa Nghiệp bằng Sự Khó chịu Thể xác
  
  
Sự thực hành Pháp tiệt trừ những ngăn che và ô nhiễm là kết quả 
của những hành vi trước đây của ta. Ta nên nhận thức sự khó chịu thể xác
 mà ta kinh nghiệm trong khi thực hành là kết quả của lòng bi mẫn của 
Tam Bảo. Nỗi đau khổ nhỏ bé tương đối này giải tan nghiệp tương lai 
khiến nó không chín mùi. Vì lý do này ta nên kinh nghiệm nỗi đau khổ này
 với sự hỉ lạc và xác tín. Những kinh nghiệm khó chịu như thế cho thấy 
sự thực hành đang vận hành. Việc sử dụng những phương pháp tịnh hóa có 
thể dẫn tới nhiều kinh nghiệm khó chịu trên bình diện thân, ngữ và tâm. 
Đồng thời ta đang thoát khỏi những khó khăn và ngăn che trong tâm thức 
ta. Khi ta kinh nghiệm sự tịnh hóa như một kết quả của việc thực hành 
của ta, sự xác tín của ta nơi Tam Bảo tăng trưởng. Ta cảm thấy một sự 
biết ơn sâu xa bởi những điều bực bội nhỏ bé tương đối này giúp giải 
thoát ta khỏi những điều kiện mà nếu để chúng chín mùi thì nỗi đau khổ 
còn to lớn hơn thế.
  
  
3. Ý thức về Sự Chấp Ngã nhờ Đau khổ
  
  
Ta nên coi mỗi đau khổ là một pháp đối trị cho sự chấp ngã. Việc 
kinh nghiệm nỗi khổ của riêng ta tự nó là một bằng chứng của thái độ quy
 ngã của ta đối với mọi hiện tượng. Đồng thời, những tình huống như thế 
(nơi ta kinh nghiệm đau khổ) mang lại cho ta khả năng thoát khỏi sự chấp
 ngã. Nếu ta không có ảo tưởng-bản ngã thì ta có thể kinh nghiệm không 
đau khổ (không trải nghiệm đau khổ.) Ta cũng nên thấu suốt nguyên nhân 
nỗi khổ của ta: ta kinh nghiệm nó do bởi những hành vi trước đây của ta 
là là kết quả của sự chấp ngã. Bởi quá chú trọng vào bản thân, ta gieo 
trồng nhiều chủng tử nghiệp mà giờ đây chín mùi thành sự đau khổ. Ta có 
thể coi đau khổ như một giáo lý chỉ rõ cho ta kết quả của những hành vi 
là hậu quả của việc chú trọng vào bản thân. Từ vô thủy sự chấp ngã này 
đã là nguyên nhân khiến chúng ta bị vướng kẹt trong vòng luân hồi sinh 
tử.
  
  
4. Quan sát Bản ngã của ta
  
  
Bản ngã muốn được thỏa mãn trong mọi lúc. Chừng nào mà mọi sự tốt 
đẹp thì bản ngã của ta hài lòng và cố gắng duy trì trạng thái này. “Bản 
ngã” của ta bám dính vào sự hài lòng này và tâm ta bị đau khổ với sự ham
 muốn – tham độc. Khi những hoàn cảnh tốt đẹp ra đi, bản ngã vẫn bám 
dính vào chúng bởi nó muốn được hài lòng và càng có thêm sự tham luyến 
và ham muốn xuất hiện trong tâm ta. Nếu xảy ra những tình huống khó chịu
 thì bản ngã phản ứng bằng sự giận dữ và thù ghét. Nó cố gắng né tránh 
những tình huống khó chịu ấy và thay thế chúng bằng những kinh nghiệm dễ
 chịu. Theo cách này tâm ta phiền muộn và không vui. Chúng ta có thể 
nhận ra tác động liên tiếp của bản ngã trong mọi tình huống. Nó không 
ngừng phân loại những kinh nghiệm là dễ chịu hay khó chịu. Nếu chúng ta 
tuân theo bản ngã thì ta tích tập nghiệp mà không sớm thì muộn sẽ chín 
mùi như những loại đau khổ khác nhau.
  
  
5. Những Kinh nghiệm Khó chịu như một sự Kiểm tra tánh Kiên trì của ta
  
  
Ta nên nhớ tới hứa nguyện  của ta là sử dụng thân, ngữ, và tâm ta 
để làm lợi lạc người khác. Khi biết rằng ta làm việc vì sự lợi lạc của 
tất cả chúng sinh ta nên giữ gìn hứa nguyện ấy, điều phục những khó khăn
 nội tại của ta, và tiếp tục việc thực hành./. 
  
  
  Lạt Ma Gendyn Rinpoche – Liên Hoa Việt dịch
    
  
http://phatgiaovnn.com/upload1/modules.php?name=News&op=viewst&sid=7112