Ân đức sâu dày
Năm 1990 là năm đại tang trong đời con. 
28 tháng Giêng, thầy an nhiên thị tịch trong tư thế tĩnh tọa tại tu viện
 Huệ Quang. 25 tháng 6 thân mẫu con vui vẻ theo Phật tại bệnh viện 
Nguyễn Trãi, đến 28 tháng 10, hòa thượng Kim Huê an nhiên nhi hóa sau 
thời gian chống chọi với tử thần. Trong vòng 10 tháng, con đành chắp tay
 bái biệt 3 người suốt đời con tôn thờ, kính trọng.
Thầy ơi, con còn nhớ rõ, những tháng 
ngày yên ả thanh bình, được duyên hầu hạ, làm thị giả cho thầy là cả 
diễm phúc trên đời. Chính nhờ ân đức này,  mảnh y giải thoát con mặc vẫn
 nguyên vẹn. Nhờ hồng phúc kề cận thầy mà con đủ đầy phước duyên tiến tu
 đạo nghiệp. Nhờ tháng ngày phục dịch tại tu viện mà con có dịp may vun 
bồi vườn trí nơi này, chốn nọ.
Sau khi thầy viên tịch, con rời khỏi Huệ
 Quang vào tuần thất 21 ngày. Nghe nói Huệ Quang bây giờ đổi da, thắm 
thịt nhiều. Nơi phương xa, lâu lâu được những thông tin nơi chùa nhỏ năm
 xưa phát triển không ngừng, lòng con tràn ngập niềm vui bất tận. Tu 
viện Huệ Quang có theo dòng đời vô thường thay đổi, không làm sao đổi 
thay, có năng lực phủ mờ nhân dáng ngồi như tượng vương tại thiền sàng 
nhà tổ hoặc trên chánh điện của thầy. Theo con thời gian không thể thay 
đổi những kỷ niệm đẹp kết tinh, lắng đọng trong tâm tư mọi người. Thời 
gian không làm sao bào mòn những giá trị đạo đức tâm linh, những lời dạy
 thiết tha chân tình xuất phát từ cõi lòng của người thấy rõ đường về.
Suốt đời hoằng hóa
 Kính
 bạch thầy, con còn nhớ, tháng ngày ở Huệ Quang, ngoài thời giờ giảng 
dạy Kinh, Luật cho Tăng, Ni thầy dành hết thời gian chuyên sâu vào thiền
 định. Thầy thường tĩnh tọa trên chiếc bồ đoàn bằng cây đơn sơ hay ngồi 
trên chiếc giường cũ năm nào, mỗi ngày 6 thời, mỗi thời ít nhất 2 giờ. 
Nhân dáng thiền định của thầy vững chắc như vách núi. Đôi mắt sâu kín 
của thầy như sẵn sàng ban trải tình thương dạt dào đến học chúng xa gần.
Kính
 bạch thầy, con còn nhớ, tháng ngày ở Huệ Quang, ngoài thời giờ giảng 
dạy Kinh, Luật cho Tăng, Ni thầy dành hết thời gian chuyên sâu vào thiền
 định. Thầy thường tĩnh tọa trên chiếc bồ đoàn bằng cây đơn sơ hay ngồi 
trên chiếc giường cũ năm nào, mỗi ngày 6 thời, mỗi thời ít nhất 2 giờ. 
Nhân dáng thiền định của thầy vững chắc như vách núi. Đôi mắt sâu kín 
của thầy như sẵn sàng ban trải tình thương dạt dào đến học chúng xa gần.
Ôi, cuộc đời hoằng hóa của thầy  không 
biết mỏi mệt công phu tu tập, không biết dừng nghỉ phụng sự chúng sanh, 
không biết chán nản giáo dục, đào tạo Tăng, Ni tài đức cho đạo pháp và 
dân tộc. Có khi Phật sự đa đoan, công việc giảng dạy bộn bề, cần thời 
giờ giải quyết công việc hay nghỉ ngơi, con vẫn thấy thầy thong dong tự 
tại như không có gì. Con thấy rõ, hầu như không gì có thể buộc ràng đời 
sống thư thái, nhẹ nhàng của thầy, thậm chí những việc được gọi là Phật 
sự.
Mỗi tối hầu cận thầy, thầy thường khuyên
 bảo: “Làm bất cứ việc gì cũng phải bằng tâm đức, phục vụ đạo pháp chúng
 sinh phải hết dạ, hết lòng, đừng chấp chặt rồi tự chuốc lấy khổ đau”. 
Điều này được thể hiện rất rõ trên nét mặt hoan hỷ của thầy hay những 
lúc an nhiên tĩnh tọa trên thiền sàng.
Thầy buông xả tất cả để trở về nguồn tâm
 ngời sáng, sống với thể tánh thanh tịnh nhiệm mầu bất sinh, bất diệt. 
Công việc ngập tràn, Phật sự đa đoan với thầy như gió thoảng qua, chỉ là
 tuỳ duyên hành hoạt.
Trường hạ Vĩnh Nghiêm năm nào
Con nhớ khoảnh khắc diệu kỳ, tấm lòng vị
 tha lo đàn hậu tấn của thầy. Năm 1988, sau đêm ân cần khuyến khích, 
thầy ngồi xe xích lô từ chùa Huệ Quang ra chùa Vĩnh Nghiêm, quận 3, gởi 
cố hòa thượng viện chủ nhận con tham dự khóa An cư năm đó.
Thầy dẫn con đến thẳng phương trượng của
 cố hòa thượng viện chủ, con đắp y vào đảnh lễ  người. Cố hòa thượng 
viện chủ lúc nào cũng tươi cười, nét mặt khoan dung bình dị. Chính cố 
hòa thượng hướng dẫn con ra nhà tổ đảnh lễ chư tổ, tác pháp hữu an cư và
 đảnh lễ chư vị lãnh đạo Hạ trường.
Ngày đó, trường hạ Vĩnh Nghiêm chỉ thu 
nhận những vị thượng tọa cao đức, chư tôn túc đủ đầy nội lực và khả năng
 làm Phật sự tại các quận, huyện, nội ngoại thành. Vĩnh Nghiêm luôn là 
trường Hạ kiểu mẫu tại thành phố. Con là Tỳ-kheo nhỏ nhất trong trường 
Hạ, nhỏ tuổi đạo lẫn tuổi đời và đến sau cùng. Trong thâm tâm của số ít 
quý thầy cho con là người ỷ lại vào dù cao của thầy và cố hòa thượng hóa
 chủ nên những ngày đầu con cảm nhận không khí không vui. Lần hồi với uy
 đức của thầy, lòng quảng đại quan tâm thương mến của cố hòa thượng, con
 an tu nơi đây 3 tháng mà không có sự cố đáng tiếc nào xảy ra.
Tổ đình Linh Sơn khó quên
 Thầy
 ơi, kỷ niệm khó quên nữa là trong những năm hầu thầy, thầy thường 
khuyên dạy con “Là tu sĩ, ngoài đức độ được vun đắp từ nội lực tu hành, 
còn phải am tường thế pháp lẫn Phật pháp”. Đối với thầy, Tăng sĩ có 
duyên và điều kiện  trí lực, phải thành thạo các việc tổ chức lễ lạc 
truyền thống Phật giáo.
Thầy
 ơi, kỷ niệm khó quên nữa là trong những năm hầu thầy, thầy thường 
khuyên dạy con “Là tu sĩ, ngoài đức độ được vun đắp từ nội lực tu hành, 
còn phải am tường thế pháp lẫn Phật pháp”. Đối với thầy, Tăng sĩ có 
duyên và điều kiện  trí lực, phải thành thạo các việc tổ chức lễ lạc 
truyền thống Phật giáo.
Chính thầy viết giấy giới thiệu gởi con thọ học với cố hòa thượng Tổ đình Linh Sơn, Cầu Muối bấy giờ.
Con đã được cố hòa thượng thương, tận 
tình chỉ dạy từ việc tổ chức lễ chúc thọ các bậc cao niên, lễ xuất gia, 
lễ thọ Bát quan trai, lễ truyền trao Tam quy ngũ giới, đến cách thức 
tiếp đãi Phật tử và thành phần nhân sĩ trong xã hội. Con nghĩ, chính nhờ
 hồng đức của thầy mà con có cơ duyên học hỏi nhiều đến thế. Chính nhờ 
sự quý mến lẫn nhau giữa thầy và cố hòa thượng Linh Sơn nên ngài mang 
hết tâm huyết truyền trao kiến thức và kinh nghiệm của đời người chỉ dạy
 cho con.
Ôi đẹp đẽ và trang nghiêm làm sao, trong
 bất cứ buổi lễ Phật giáo nào có sự chứng minh của thầy và cố hòa thượng
 thì buổi lễ đó thêm phần trang trọng, thêm nhiều tín tâm cho mọi thành 
phần tham dự. Hai ngài có sức hút mãnh liệt đối với tha nhân. Đó là thân
 tướng trang nghiêm, giọng nói từ tốn như chuông ngân, luôn ăn sâu vào 
lòng người. Những lời đáp từ văn chương khúc chiết, lưu loát khiến ai 
nghe cũng cảm thấy nhẹ nhàng, niềm hỷ lạc trào dâng trong tận cõi lòng 
tinh khiết.
Có một điều, giữa thầy và cố hòa thượng 
Linh Sơn khác biệt đôi chút. Đó là cố hòa thượng Linh Sơn có tài sử dụng
 pháp phục trong mọi buổi lễ một cách thành thục, nhuần nhuyễn nên dễ 
nổi bật hơn hết. Còn thầy, chắc ảnh hưởng nếp sống thiền gia giản dị nên
 trong buổi lễ nào, vai trò chứng minh nào, con thấy thầy sử dụng duy 
nhất y chín điều, áo tràng màu vàng ngả màu. Thầy không có hồng y, mão 
hiệp chưởng, tỳ lư gì hết. Phải chăng, đó chính là nét nổi bật riêng của
 thầy.
Chén trà Lục Tổ nhiệm mầu
Một lần vào buổi sáng đẹp trời, hòa 
thượng Duy Lực đến vấn an sức khỏe thầy. Ngài mang gói trà nhỏ do đệ tử 
người Hoa cúng dường, đó là trà Lục Tổ. Kỳ này, chính tay hòa thượng pha
 trà, phần con chỉ nấu nước sôi.
Ôi món trà Lục Tổ, cho đến giờ vẫn còn 
đọng lại trong tâm thức, thân thể con. Hương vị lạ kỳ, không sao diễn tả
 hết. Có vị chát nhưng ngọt nhẹ, qua đến cuống họng tỏa ra vị đắng, nuốt
 vào lại ngọt thêm chút nữa, làm tâm hồn người thưởng thức sảng khoái, 
nhẹ nhàng, lâng lâng khó tả, như trở về với chân tánh Di Đà hay Thích 
Ca, Lục Tổ. Dòng Tào Khê vẫn bất tận nhiệm mầu trong cỏ cây, núi đá, 
trong cảnh vật thiên nhiên, con người và vũ trụ.
Con thấy thầy và hòa thượng càng uống 
trà, càng dịu dàng hơn trong mọi oai nghi tấn chỉ. Lời nói phát xuất ra 
như  chưởng lực tuôn trào, luôn rúng động tâm thức con, kéo con về với 
thực tại nhiệm mầu. Lát sau, thầy và cố hòa thượng chìm trong im lặng 
tịch như, thoát ra ngoài mọi ngã nhân bỉ thử, ngồi bất động không nói để
 đi vào thế giới minh nhiên mênh mông.
Thường người ta lầm tưởng tổ, sư thiền 
là phải đánh, phá, la hét và đập đổ. Con thấy thầy và cố hòa thượng lúc 
nào cũng từ ái, nhẹ nhàng, ước muốn xương minh, xây dựng. Hai ngài lúc 
nào cũng thể hiện sự hòa kính, tìm phương cách hay để đạo Phật cửu trụ 
Ta bà, chúng sinh ân triêm pháp hỷ.
Thầy và cố hòa thượng uống trà, tâm thể 
và cách thức vượt lên trên thể cách uống trà bình thường. Uống trà để 
thấy tánh, sống an lạc hạnh phúc với Như Lai thường hằng, hiển bày ngay 
trong phút giây tĩnh tại. Uống trà để thấy được sự sống nhiệm mầu luôn 
hiển thị hiện tiền. Lối uống trà này là truyền thống của Sư tổ Huệ Năng,
 của thầy và cố hòa thượng Duy Lực năm nào. Những năm gần đây, con học 
và thực hành cho đến bây giờ.
Cung kính ngưỡng bạch thầy, hôm nay 
thành tâm ôn lại, 18 năm trời mà tưởng chiêm bao đêm qua. Những hình 
ảnh, ngôn từ, lời khai thị, huấn thị vẫn còn tiềm ẩn, lưu xuất trong 
trái tim con.
Theo dòng đời tương tục diệt sinh, mọi 
huyễn hoặc pháp trần rơi rụng, những cằn cỗi não phiền chết cứng. Những 
kỷ niệm, hình ảnh thân thương an bình luôn lấp lánh, hiện về trong tâm 
thức vô ngôn của thị giả. Dầu ở phương trời nào, hình ảnh của thầy vẫn 
mãi trong con cho đến hết đoạn đường sinh diệt.
Con xin lạy tạ ân đức sâu dày của thầy, cúi xin thầy chứng minh cho tấm lòng thành của con!!!
(Chùa Phật Tổ, Úc châu)