Hiện nay, thế giới đang có sự rối loạn, không hiểu biết, tranh cãi về
 bệnh tâm thần, thiền định, và sự liên hệ giữa hai đề tài này. Các 
chuyên gia về sức khỏe thể chất, và tâm thần cũng không hiểu rõ phạm vi 
nghề nghiệp của họ. Họ cũng không hiểu cái gì là thiền định. Bởi vậy đối
 với người bình thường họ sẽ rất bối rối.
Cả hai chữ «tâm thần» và «thiền định» cũng mang những hào
 quang thần bí. Nói tóm lại, bệnh tâm thần là khoa học rất mới mẻ, chưa 
đến trăm năm, trong khi vô số cách thức thiền đã bắt nguồn từ thuở xa 
xưa. Tuy vậy, đôi lúc có lời tuyên bố là thiền định không có tính cách 
khoa học. Thật ra, thiền định là môn khoa học, phương pháp thực
 tập và hoàn hảo hóa mấy thế kỷ về trước bởi các khoa học gia về tinh 
thần và thể chất, bởi các vị Rishis, Munis và các vị Phật. Sau rốt, khoa
 học là gì? Khoa học là sự quan sát một cách khách quan về sự phân tích 
các dữ kiện và sự ứng dụng.
 Khoa học tìm kiếm để biết sự thật.  Chúng ta sẽ thấy trong bài xã luận 
này, dựa cả vào tiêu chuẩn tân thời, thiền Vipassana (Minh Sát) thật là 
môn khoa học.
Người ta thường nghĩ đến bệnh tâm thần là môn khoa học chuyên 
giải quyết những tâm thần bất bình thường. Nhưng sẽ chính xác hơn nếu sử dụng từ
 «hành vi» thay thế cho hai từ «tâm thần» trong việc định nghĩa, bởi vì 
bệnh tâm thần định nghĩa là «Môn học về hành vi bất thường. Bây giờ, để 
định nghĩa sự bình thường thì thật là nhiệm vụ khó khăn. Bình thường nói
 chúng có nghĩa «trung bình». Hành vi ám chỉ những hành động thuộc về 
lời nói hay việc làm, như hành vi nói năng, hành vi xử sự. Trong môn học
 về bệnh tâm thần và tâm lý, cách suy nghĩ được nghiên cứu chỉ bằng kết 
luận sau những hành động về lời nói, việc làm được thể hiện. Mục đích 
của các môn khoa học này là để giúp sửa đổi hành vi của một người trở lại bình thường (thông thường nghĩa là sự trung bình).
Chúng ta cũng có thể sử dụng định nghĩa tân thời cho bệnh tâm thần như: Phương thức áp dụng môn
 khoa học về thần kinh cho việc chữa trị bệnh tâm thần của một nhóm bệnh
 nhân tâm thần. Thật ra ngay từ ban đầu, phạm vi của bậnh tâm thần đã 
không được định nghĩa đúng đắn.
 Kết quả các bác sĩ chuyên môn về tâm thần thường chỉ chữa cho những 
bệnh tâm thần thứ yếu. Trong những năm 60 và 70, các bác sĩ về tâm thần ở
 phương Tây đều thực hành phân tâm lý học. Những bệnh nhân của họ thường
 không có những triệu chứng, vấn đề nghiêm trọng; Rất ít bệnh nhân bị 
loạn trí. Trong khoảng thời gian này, trong tâm thần học có ấn tượng là 
bệnh tâm thần có thể chữa trị tất cả những vấn đề khó khăn của con 
người. Nhưng thực tế thì tâm thần học không đóng góp được gì quan trọng,
 trong sự hài hoà của xã hội nói chung, ngoại trừ giúp đỡ được cho một 
số ít bệnh nhân.
Các bác sĩ tâm thần học có lý trí đã dần dần hiểu được biên 
giới của bệnh tâm thần không bao quát song song cùng với hoạt động tinh 
thần của mọi người. Sự hiểu biết này là ý nghĩa to tác, bởi vì nó giúp 
cho bác sĩ tâm thần học và người bình thường định nghĩa phạm vi của bệnh
 tâm thần. Sự thiếu hiểu biết về điều này của một người bình thường tạo 
nên nhiều vấn đề khó khăn khác nhau. Thí dụ, đôi lúc bác sĩ tâm thần 
được mời xem bệnh, trong khi bệnh ấy lại không thuộc về tâm thần, bắt 
nguồn từ sự tin tưởng, đòi hỏi vô lý, rằng bác sĩ tâm thần học phải biết
 hết mọi vấn đề liên quan đến thần trí. Ngược lại với quan niệm hiểu 
biết hết của bác sĩ tâm thần học, mặt khác của đồng tiền là
 sự thiếu hiểu biết toàn bộ về môn đặc biệt này, kể luôn cả vài thành 
phần chuyên gia về mặt sức khỏe với kết quả là… ngay cả khi cần thiết và
 có lợi ích người ta cũng không chịu tìm đến sự giúp đỡ của bác sĩ tâm 
thần.
Trong thời gian vừa qua, bệnh tâm thần đã gia nhập vào một 
chuyên ngành của y học, với trọng tâm chuyên trị những bệnh tâm thần 
nặng. Điều này đã xác định lại vai trò của bệnh tâm thần như là môn khoa
 sinh học, và bác sĩ tâm thần học hiện nay đã giữ vai trò thích hợp hơn,
 họ là những chuyên gia trị liệu về rối loạn sinh học, và tâm lý. Điều 
này không có nghĩa là vai trò của bác sĩ tâm thần chỉ giới hạn trong 
việc viết toa thuốc; Bác sĩ tâm thần cũng sử dụng những
 phương thức trị liệu khác nhau. Nhưng ngày càng nhiều, các bác sĩ tâm 
thần bắt đầu tự thu hẹp chuyên ngành của họ: Trị liệu những rối loạn 
thần kinh nặng. Những điều kiện để giúp đỡ việc trị liệu cho các bác sĩ 
tâm thần là trang bị đầy đủ dụng cụ,
 và tay nghề cao. Các bác sĩ tâm thần được huấn luyện để giải quyết các 
hành vi «bất bình thường». Trong những trường hợp căn bệnh gần với hành 
vi bình thường (hoặc trung bình), hiệu quả của việc trị liệu tâm thần 
khác nhau rất xa giữa việc trị liệu và phương cách trị liệu.
WHO – World Health Organi-zation (Hội Đoàn Sức Khỏe Thế Giới) liên 
tục cố gắng cải thiện tiêu chuẩn chẩn đoán cho các bệnh tâm thần. Liệt 
kê danh sách các chứng bệnh quốc tế (International Classification of 
Diseases – ICD-10) là một bước tiến quan trọng. Người ta đang cố gắng để
 phân ranh giới một cách hệ thống trong lĩnh vực bệnh tâm thần. Việc này
 giúp cho các bác sĩ tâm thần có thể chú tâm đến một số nhỏ dân chúng 
đặc biệt, để giúp các nhà nghiên cứu tìm ra những phương thuốc để chữa 
các chứng bệnh rối loạn tâm thần, và có thể bảo vệ dân chúng khỏi bị gán
 cho cái tên bệnh nhân tâm thần. Tuy vậy, ranh giới vẫn còn mơ hồ. Kể cả
 bác sĩ tâm thần giỏi đôi lúc cũng cảm thấy khó khăn khi phải quyết định
 nên chữa trị bệnh nhân đặc biệt nào đó, hay cho rằng người ấy không cần
 sự trị liệu.
Mọi người đều chịu đau khổ từ những điều bất hạnh khác nhau. Khi đối 
diện với những vấn đề thương mại, một người có thể dễ nổi giận, trong 
khi người khác thì nghiêng về sự buồn rầu. Trong những lúc này, một cá 
nhân có thể nói là không bị bệnh tâm thần. Họ có thể được lợi ích từ lời
 khuyên, sự nâng đỡ của bạn hay thân quyến, hoặc là bác sĩ tâm thần. Kể 
cả như vậy, trong cuộc sống, mỗi con người đều luôn bị dính chặt vào các
 cuộc thử thách, và đau khổ cứ liên tục xảy ra.
Một người phải làm thế nào khi đối diện với những khó khăn 
trong cuộc sống? Mỗi một cá nhân cảm thấy đau khổ khi gặp phải những 
việc không muốn vẫn xảy ra, và những việc muốn thì không thành; Khi một 
người có được vật mà họ không thích, hoặc mất đi vật gì họ thích. Tìm 
kiếm giải pháp ở đâu đây?
Tâm thức là nguyên nhân chánh. Chúng ta cần phải tìm hiểu, thăm dò 
cho đến tận chiều sâu của nó để có thể điều khiển nó – để giải quyết các
 khó khăn của chúng ta. Đây chính xác là môn khoa học của thiền định. 
Thiền định là môn khoa học nghiên cứu về hiện tượng tâm thức và vật 
chất. Môn tâm thần học chỉ tìm hiểu về tâm thức một cách gián tiếp và 
chỉ trong phạm vi có thể khảo sát được qua những hành vi từ lời nói và 
việc làm. Trong môn khoa học về thiền định, tâm thức được tìm hiểu một 
cách trực tiếp. Môn khoa học này đã được thực tập cùng khắp xứ Ấn Độ từ 
thời xa xưa.
Sự thật tất cả các hành động đều bắt nguồn từ tâm thức. Nhưng 
không phải tất cả những gì xuất hiện nơi tâm thức đều biểu lộ qua lời 
nói hay cử chỉ. Những hành động dường như là tương xứng có thể bắt nguồn
 từ những ý muốn thầm kín khác. Thí dụ, một người đứng chết trân khi 
thấy một con rắn có thể có hai lý do cho hành động này. Có lẽ anh ta quá
 sợ hãi; Hoặc anh ta có thể rất bình tĩnh và đứng yên để không làm con 
rắn sợ, hoặc để quan sát con rắn. Tương tự như thế, một người có thể cho
 kẻ nghèo một đồng bạc, với tâm lượng từ bi, để họ đi cho khuất mắt, hoặc để cho những người khác không xem anh ta là một người keo kiết.
Vì thế, vấn đề trước nhất là rất khó để giải thích môn 
tâm thần học, chiếu theo các kết quả về tâm thức bắt nguồn từ lời nói và
 hành động. Tâm thức cần được tìm hiểu trực tiếp. Vấn đề khác là các kết
 quả của cái được gọi là “ thuyết nhị nguyên của Des Cartes”, sự phân 
chia tùy ý về tâm và thân. Trong thời gian rất lâu, các nghề y khoa 
chuyên môn về thân thể, đã bỏ qua việc tìm hiểu về tâm thức. Và khi các 
bác sĩ tâm thần học bắt đầu tìm hiểu về tâm thức, trong bất cứ phương 
cách nào, họ bác bỏ thân người. Ngày nay, tầm quan trọng của phương pháp giải
 quyết vấn đề có tính cách thánh thiện được chấp nhận. Tuy vậy, không có
 phương thức thẩm vấn nào được đầy đủ, không có sự hiểu biết thích đáng 
cho sự tương tác giữa tâm thần và vật chất, với kết quả là có rất nhiều 
lý thuyết, nhưng ít dữ kiện. Hiện tượng thân-tâm không được tìm hiểu một
 cách đúng đắn.
Những vấn đề này được giải quyết xuyên qua sự hiểu biết đúng đắn về thiền định. Chữ «thiền định» rất đa dạng trong nhiều định nghĩa. Trong tiếng Anh, từ này được sử dụng một
 cách thoải mái để chỉ đến việc suy nghĩ về một cái gì đó. Các tự điển 
định nghĩa là «trầm tư mặc tưởng»: Luyện tập tâm thức trong sự trầm mặc,
 chuyên chú đến một chủ đề của sự trầm mặc để suy nghĩ, suy tư và nghiền
 ngẫm. Khi chúng ta nói đến thiền ở đây, chúng ta không sử dụng từ này trong ý nghĩa chán ngắt đó.
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ
 bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ 
này được dịch đại khái là thiền định. Thiền nói về những thực tập đặc 
biệt cho tinh thần, những phương thức chính xác để chú tâm và thanh tịnh
 hóa tinh thần. Khi chúng ta sử dụng từ «thiền định» ở đây, chúng ta sử dụng từ
 này trong ý nghĩa chuyên môn này. Hầu hết trong các ngôn ngữ Ấn Độ, có 
những từ rất đặc biệt dành cho nhiều loại thực tập thiền khác nhau, bởi 
vì Ấn Độ có truyền thống phong phú về thiền. Những từ như dhyana, japa, 
traa.taka, saadhandaa, vipassanaa, (vidarshanaa), bhaavanaa, v..v…, nói 
về những loại thực tập khác nhau. Nói chung, thiền là thực tập về sự chú
 tâm của tinh thần về những đối tượng khác nhau. Bởi vì sự chú tâm của 
tinh thần là điều kiện trước hết cho bất cứ một nhiệm vụ nào, đó là nhân
 tố rất quan trọng trong việc khám phá hiện tượng thân tâm. Sự chú tâm 
có thể thực hành với vô số đối tượng: Mắt thấy, tai nghe, sự tưởng 
tượng, lời nói…
Bậc Giác Ngộ đã cho chúng ta đối tượng kỳ diệu để chú tâm, hơi thở tự
 nhiên của chúng ta. Không giống với những đối tượng khác bên ngoài hoặc
 không có liên quan trực tiếp đến tâm thân của chúng ta, hơi thở là đối 
tượng có nhiều tiện lợi. Hơi thở trong ta, và luôn luôn hiện hữu từ lúc 
sanh ra cho đến lúc chết. Đây là thực tế hiển nhiên, rõ ràng. Hơi thở ý 
thức và vô thức, có chủ tâm và không chủ tâm. Nhịp điệu của hơi thở liên
 quan mật thiết đến trạng thái tinh thần và biết rõ ô uế nào đang xuất 
hiện nơi ý thức, kể cả sự loạn động nhỏ nhất, cũng làm nhiễu loạn nhịp 
hơi thở. Chúng ta không thể tìm thấy đối tượng để chú tâm nào khác hơn 
là hơi thở, vì hơi thở liên quan mật thiết với hiện tượng thân-tâm và 
nhất là quá dễ dàng cho việc quan sát.
Tuy vậy, sự chú tâm không phải là mục đích của thiền định; Nó chỉ là  dụng cụ. Dụng cụ để làm gì?
Ở đây chúng ta gặp cái khó khăn thứ ba về định nghĩa của thiền 
nơi khoa học tân tiến. Bốn chân lý huyền diệu về khổ rất đơn giản, hợp 
lý và phổ dụng:
 Đau khổ hiện hữu; Nó có  nguyên nhân, nguyên nhân này có thể bị nhổ tận
 gốc và có con đường dành cho việc nhổ gốc đau khổ. Tuy nhiên, những 
chân lý phổ dụng này
 không được các bác sĩ tâm thần học tân tiến hoan nghinh, vì tâm lý học 
chú trọng nhiều đến «tại sao» hơn là «làm sao». Thái độ tìm kiếm định 
nghĩa trong khi không hiểu chút gì về cơ cấu căn bản của thực tế, làm 
cho khó hiểu hơn là nâng cao sự học hỏi về các vấn đề tinh thần của con 
người.
Bậc Giác Ngộ là khoa học gia chân chính, khoa học gia lỗi lạc về thân
 và tâm. Chính Ngài đã không những khám phá hiện tượng thân-tâm và toàn 
bộ của nó, Ngài lại còn chỉ đường cho những người khác, để họ có thể 
thoát khỏi đau khổ. Ngài dạy phương thức quan sát tinh thần hoạt động ra
 sao, như thế nào thân và tâm tương tác. Ngài dạy Vipassana (thiền Minh 
Sát).
Vipassana có nghĩa là thấy, thấy một cách đặc biệt, quan sát 
bên trong. Đây là một sự quan sát có đối tượng của thực tại bên trong. 
Việc phát triển về sự nhận biết sâu sắc về bản thể tự nhiên của một cá 
nhân. Nó không có những giả thiết, chỉ là sự quan sát. Đây là cách thực 
tiễn để hiểu khó khăn của chúng ta là đau khổ và giải quyết việc này. 
Khó khăn chung của mọi người cũng giống như thế, và thuốc giải cũng phổ dụng.
 Trong Vipassana, chúng ta học quan sát những cảm xúc của chính chúng ta
 một cách khách quan. Các cảm giác là địa điểm gặp mặt của sự tương tác 
thân mật giữa thân-tâm. Xuyên qua các cảm giác xuất hiện nơi thân, chúng
 được cảm nhận nơi tinh thần. Mỗi một người trong chúng ta là một khoa 
học gia của thân và tâm. Chúng ta có sự hiểu biết trực tiếp. Bậc Giác 
Ngộ đã trình bày bốn giai đoạn căn bản của tinh thần (tâm): Ý thức, nhận
 biết, cảm thọ và những điều kiện. Về mặt trí thức, không có người nào 
phải chấp nhận những giai đoạn này; Chúng sẽ trở nên rõ ràng một khi 
chúng ta bắt đầu kiểm nghiệm được chân lý nội tại.
Khi chúng ta học quan sát được các cảm thọ nội tại, theo kinh nghiệm,
 việc này thật rõ ràng là chúng ta tiếp tục phản ứng theo những cảm thọ 
này. Các cảm thọ là căn bản để các điều kiện, mô hình cũ của ham muốn và
 ghét bỏ tăng trưởng. Sự khám phá sâu sắc này là trụ cột cho việc giải 
thoát, mà Bậc Giác Ngộ đã đưa ra. Chính điều kiện của chúng ta làm chúng
 ta mãi đau khổ, và chúng sẽ bị nhổ bỏ tận gốc bằng cách thực tập quan 
sát đối tượng của cảm thọ. Thực tập Vipassana, chúng ta không học để 
phát huy các điều kiện mới của ham muốn và ghét bỏ các cảm thọ và như 
vậy, chúng ta bắt đầu tiêu diệt các điều kiện cũ. Sự thực tập là hành 
trình từng bước một để tiêu diệt các ô uế của tâm thức. Do đó, đây là 
tiến trình để tiêu diệt đau khổ.
Không nằm trong môn phái khoa học, kỹ thuật này rất hữu dụng trong
 việc giúp tất cả mọi người có cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc, an lạc hơn .
 Những ai đã từng theo học lớp Vipassana trong vòng mười ngày, dưới sự 
chỉ dẫn của vị thầy giỏi, lớp học này là kinh nghiệm đổi đời.
Thực tập để khám phá thân tâm ở mức độ sâu xa nhất thật là không phải
 dễ. Việc này đòi hỏi sự ổn định, vững chãi về mặt thân và tâm. Người 
cầu đạo chân chính mong cầu được thực tập thiền Vipassana, họ cần có sức
 khỏe tối thiểu ở nơi thân và tâm. Thông thường, tất cả đều học được, 
trừ những người bị bệnh tâm thần. (Nên liên lạc với bộ quản lý lớp 
Vipassana trước khi ghi danh để xem học viên có bệnh, có thể thích hợp 
cho khóa học hay không).
Thiền Vipassana là phương thuốc chữa bệnh phổ biến cho nỗi đau 
khổ chung. Nhưng điều này không có nghĩa là khoa tâm thần học không có 
chỗ đứng trong việc giúp đỡ nhân loại đang đau khổ. Đối với những người 
điên, không có khả năng để theo học thiền Vipassana, một công việc hết 
sức tế nhị. Các bác sĩ chuyên môn về tâm thần học có thể giúp đỡ, làm 
giảm nỗi đau khổ của những người bệnh tâm thần. Ngoại trừ một nhóm nhỏ 
với các bệnh tâm thần quá nặng, thiền Vipassana rất hữu dụng cho tất cả mọi người.
Phạm vi của khoa tâm thần học giới hạn vào một số nhỏ dân số. Nhưng 
thiền Vipassana thì phổ biến bao gồm tất cả mọi mặt hoạt động về tâm 
thần của con người. Khoa tâm lý học ngụ ý tìm hiểu hoàn toàn về hoạt 
động tinh thần của con người, như chúng ta đã bàn qua, đây là môn “khoa 
học về thái độ cư xử”, và như vậy nó bị giới hạn. Thái độ cư xử trong ý 
nghĩa này được định nghĩa như bất kỳ một hành động phản ứng nào cũng có 
thể bị quan sát bằng cách này hay cách khác. Luận điểm là hành động đó, 
khác với tâm thức, ý nghĩ hoặc cảm giác, có thể bị quan sát và nghiên 
cứu. Ý là ở đây, người quan sát luôn là người ở ngoài cuộc, một người 
khác. Các tâm lý gia hiện đại tin tưởng rằng thái độ cư xử là con đường 
duy nhất mà các sự kiện tâm lý nội tại có thể được nghiên cứu kỹ.
Bất cứ người nào theo học khóa thiền Vipassana trong vòng mười ngày, 
đều có thể nhìn thấy sự sai lầm về mặt này của khoa tâm lý học hiện đại.
 Anh ta biết ngay từ kinh nghiệm bản thân là các sự kiện tâm lý nội tại 
có thể được quan sát trực tiếp. Mỗi thiền sinh của Vipassana đều trở 
thành một bác sĩ tâm lý thực thụ cho chính mình. Xuyên qua môn khoa học 
thuần khiết về quán sát tự thân, anh ta bắt đầu thoát khỏi đau khổ.
Nguyện cầu cho nhiều người được bước đi trên con đường do Bậc Giác 
Ngộ chỉ dẫn. Nguyện cầu cho nhiều người học tập quán sát thực tại bên 
trong. Nguyện cầu cho mọi chúng sinh đều hạnh phúc, mọi chúng sinh đều 
an lạc.
Mỹ Thanh dịch
Nguồn Thuvienhoasen.org