Một
 đức tin đưa con người đến chỗ thành công quyết không phải là một thứ mê
 tín. Một tín ngưỡng mù quáng không xây dựng trên lý trí xét đoán là một
 nguy hại lớn cho đời sống của cá nhân, của gia đình, dân tộc và xã hội.
 Cái tín ngưỡng sai lầm có thể làm hại tinh thần quần chúng. Sự tín 
ngưỡng mù quáng không căn cứ trên lý trí xét đoán đã đào luyện và sẽ đào
 luyện lên những trí óc lười biếng, ỷ lại, nô lệ cho hoàn cảnh, nô lệ 
cho dục vọng.
Một
 đức tin hổn tạp, thiếu căn cứ, thường hay đi với sự nương nhờ vào một 
thế lực phỉnh phờ. Hai thứ ấy nương nhau, có ảnh hưởng lẫn nhau rất 
mạnh. Hai thứ ấy cũng đều tạo nên những bộ óc yếu đuối, ỷ lại, thiếu 
tinh thần tự lập. Do một tin tưởng sai lầm, tinh thần càng ngày càng bị u
 tối, và sau bức màn thành kiến, con người làm sao trổi dậy, cường tráng
 và tự lập cho được?
Ðạo
 Phật truyền sang đất Việt đã gần 2.000 năm, có thời rực rở huy hoàng, 
nhưng cũng có thời lu mờ hôn ám. Rực rở huy hoàng hay lu mờ hôn ám chỉ 
là ở tại đức tin: mê tín đã gây nên cái hình thức tào tạp của đạo Phật 
của thời cận đại. Có nhiều người tự xưng là tín đồ đạo Phật mà lại có 
những tín ngưỡng sai lạc hẳn tinh thần Phật Giáo. Căn cứ vào hình thức 
ấy, người ta vội mỉm cười, cho đạo Phật là mê tín, là ỷ lại thần quyền, 
là chỉ lo tư lợi, là chán đời, là nhu nhược yếu đuối.
Số
 người chịu khó đi sâu vào tinh thần Phật Giáo có được bao nhiêu đâu! 
Nhiều kẻ mang danh là tín đồ mà sự hiểu biết và hành động trái hẳn giáo 
lý Phật dạy, phản lại tinh thần từ-bi trí-tuệ của Phật Tổ. Nhận xét bằng
 một cặp mắt kém nhận xét, nhiều người trông thấy những màu mè ấy vội 
kết luận rằng đạo Phật chỉ là một đa thần giáo như những đa thần giáo 
ngày xưa!
Phật
 giáo nước Việt trong mấy thế kỷ vừa qua đã có một hình thức tào tạp. 
Những hình thức bói xăm, vàng mã, đồng bóng họp chung lại gọi là "đạo", 
và trong trường hợp nào (ví dụ như lên đồng lên bóng chẳng hạn) người ta
 cũng "mô Phật" được! Những vị chân tu cùng đạo Phật chân chính, vì thế,
 được ít người biết đến. Hèn gì mà đạo Phật không bị nhận thức sai lầm.
Có
 bao nhiêu kẻ thường ngày không biết đến Phật, không nghe, không hiểu, 
và không làm theo lời Phật dạy, khi lâm nạn mới đến chùa tháp, đốt một 
nén hương khẩn cầu. Họ xem đạo Phật là một lối chuyên môn thờ cúng, và 
Phật là một vị thần thiêng liêng sẵn sàng ban phúc diệt họa cho họ mỗi 
khi họ cần đến.
Một
 hôm, có người trong phái Kalmala đến tìm Phật và hỏi Ngài: "Bạch đức 
Thế Tôn, các thầy Bà-la-môn ngoại đạo đến thăm chúng tôi, người nào cũng
 bảo rằng chỉ có lời của họ mới đúng chân lý mà thôi. Bạch Ngài, chúng 
tôi thật lấy làm phân vân không biết theo bên nào, bỏ bên nào".
Trả
 lời câu hỏi ấy, đức Phật không bảo rằng Ngài là chúa tể vạn vật, chỉ có
 đạo Ngài mới nên theo; ngài không bảo rằng các vị giáo chủ và các đạo 
khác đều là hư ngụy, là sai lầm. Lời dạy của Ngài rất rộng rãi. Ngài 
bảo: "Ngươi đừng vội tin theo ai cả. Tất cả những gì ngươi đã thực 
nghiệm sâu xa, hợp với lý trí xét đoán của ngươi, có thể đem lại hạnh 
phúc cho chính ngươi và những kẻ khác, những cái ấy, ngươi hãy nhận đó 
là chân lý và hãy cố sống đúng theo chân lý ấy ".
Ðọc
 đoạn vừa rồi trong kinh Kalama, chúng ta nhận thấy hai điều: một là đạo
 Phật không bao giờ bắt buộc người ta tin theo một cách mù quáng; hai là
 đức Phật không phải là một vị chúa tể có quyền phép lạ, có thể đem tín 
đồ mình đặt ở thiên đường hay ở địa ngục tùy theo ý thích của mình.
Nội
 một sự kiện " không buộc người phải tin theo một cách mù quáng" đủ 
chứng tỏ rằng đạo Phật có một tinh thần thật rộng rãi và có tính cách 
nhân loại. Ðạo Phật dạy rằng không hiểu Phật mà theo Phật thì đã không 
có lợi mà còn có hại là khác nữa.
Chính đức Phật Thích Ca cũng có dạy: "Tin ta mà không hiểu ta, ấy là bài báng ta vậy ".
Như thế, người nào tin Phật như một vị chúa tể có quyền ban phúc trừ họa tức đã bài báng Phật.
Một
 lòng tin chân chính phải đi theo với một lý trí xét đoán. Hiểu rồi mới 
tin, thì cái tin ấy mới là chánh tin. Ðối với đạo Phật, tin mà không 
hiểu thì sẽ lạc đường.
Ðạo
 Phật chủ trương cá nhân có quyền thẩm sát tất cả, và tin hay không là 
tùy ở mình. Chúng ta hãy đọc đoạn nầy cũng ở trong kinh Kamala:
"Ðừng
 vội tin tưởng những cái gì mà người ta thường lập đi lập lại luôn. Ðừng
 vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là một tập tục cổ truyền đã trải 
qua nhiều thời đại. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là điều 
người ta hay đồn và hay nói đến luôn. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù 
điều đó là do bút tích thánh nhân xưa để lại. Ðừng vội tin tưởng một 
điều gì dù điều đó là một luật lệ đặt ra từ lâu và được xem như là chánh
 đáng. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là do quyền năng của 
một bậc thầy hoặc do quyền lực của một nhà truyền giáo.
Tất cả những gì hợp với lý trí xét định, hãy tin ".
Tam
 Tạng giáo điển của Phật Giáo đối với Phật Tử không giống những thánh 
kinh đối với tín đồ các tôn giáo khác. Phật Tử không bị bắt buộc tin vào
 kinh điển một cách mù quáng. Kinh điển đối với Phật Giáo không phải là 
một "tối hậu chân lý", một bảo vật mà ai cũng phải thờ lạy. Kinh điển 
không phải là những bùa chú linh thiêng mà hể đọc lên là được Ðức Phật 
cứu độ. Kinh điển chỉ là lời dạy của Phật, của một bậc giác ngộ. Ðức 
Phật đã từng nói:
"Này các tỳ kheo! Hãy xem ta như kẻ hướng dẫn các ngươi trên đường tu học".
Ðịa
 vị của Ðức Phật trong Phật Giáo là địa vị của một người dẫn đường trong
 đám người lạc hướng, hay nói cho khác hơn, địa vị của một lương y trong
 đám bệnh nhân đau khổ.
Nếu
 những người lầm đường không đi theo con đường của người dẫn lối thì 
không khi nào đến đích được, và đó là lỗi của người không đi, chứ không 
phải là lỗi ở người chỉ đường. Vị lương y cho thuốc uống, nhưng sợ đắng 
không uống, bệnh không lành, đó chỉ là lỗi ở các con bệnh, chứ không 
phải lỗi ở lương y.
Nếu
 Phật Tử không hiểu lời dạy của Phật, không thực hành theo những lời dạy
 của Ngài, thì Ðức Phật và tam tạng giáo điển của Ngài đối với người kia
 không còn ý nghĩa gì nữa cả. Bởi thế, đốt hương, kết hoa, tỏ lòng biết 
ơn Phật cũng chưa phải là việc cần làm nhất của một người Phật Tử chân 
chính. Thực hành và sống theo lời Phật dạy mới là Phật Tử chân chính 
vậy.
Căn
 cứ vào những lời trong kinh Kalama và căn cứ trên lý nhân quả xác thực,
 chúng ta thấy rằng Ðức Phật không phải là một vị chúa tể toàn năng có 
thể ban phúc lợi và sự giải thoát cho con người, nếu con người có cầu 
nguyện Ngài. Lạy Phật, dâng hương lễ Phật, mới là việc làm của kẻ biết 
ơn. Muốn giải thoát, muốn có an lạc, con người phải biết xem Phật như 
một ngôi sao dẫn đường, một bậc Thầy sáng suốt.
Hãy
 nhìn Ðức Phật ở địa vị chính của Ngài, và đừng bao giờ đặt ngài ở địa 
vị một thần linh, một chúa tể. Người Phật Tử nếu có tin tưởng, thì chỉ 
là tin tưởng ở sự dẫn đạo sáng suốt của bậc giác ngộ, tin tưởng ở khả 
năng giác ngộ ( Phật Tính ) sẵn có ở mọi loài, chứ không phải tin nơi 
quyền phép có thể ban phúc trừ họa.
Hiểu
 như thế, ta mới thấy rằng những tâm niệm đen tối, mê tín, ỷ lại vào 
quyền năng vu vơ của thần thánh không phải là một lòng tin mà đạo Phật 
đòi hỏi. Người học Phật phải thận trọng, luôn luôn giữ thái độ khách 
quan trong khi tìm hiểu kinh điển, và như thế là có tinh thần khoa học. 
Trí óc kẻ học Phật phải là một cơ quan gạn lọc vàng sõi, phân biệt rõ 
ràng, đừng để bị nô lệ cho những kiến văn, sách vở, và những thành kiến 
dựa vào tình cảm.
Thạc Đức 
Theo: Sách: Ðạo Phật Qua Nhận Thức Mới