gần đó, hồng 
chung chùa sư nữ Vạn Thạnh ngân vang, xa xa vẳng tiếng chuông Hải Đức 
dội về. Tất cả những thanh âm thiền vị, sâu lắng và đẹp đẽ nhất đã nuôi 
dưỡng tâm hồn nhạy cảm của tôi từ lúc bé thơ. Tôi
 lớn lên từ chiếc nôi đó. Chiếc nôi đặt giữa thành phố Nha Trang bé nhỏ,
 hiền hòa. Trở mình, chợp mắt, có thể nhìn thấy dáng mẹ trang nghiêm 
trong chiếc áo tràng lam, một mình trì tụng kinh Pháp Hoa cùng lúc với 
thời công phu khuya của các chùa lớn nhỏ chung quanh. Những hình ảnh và 
âm thanh ấy có lẽ được ghi lại rõ rệt vào tuổi lên năm, lên bảy; và đi 
ngược thời gian xa hơn nữa, tôi đoán chừng có cậu bé chưa thôi nôi, nằm 
im, mở mắt thao láo, dõng tai lắng nghe tiếng chuông mõ và giọng tụng 
kinh trầm ấm của mẹ hiền mỗi khuya.
Thế
 rồi lớn khôn lên một chút, tôi đã biết đi chùa sư nữ để tụng kinh Pháp 
Hoa vào mỗi tối. Tụng đọc lại những lời kinh mà mẹ tụng hàng ngày trước 
đó. Mỗi tối, mỗi tối, và mỗi tối tụng đọc, lời kinh lan thấm trong máu 
huyết tôi, để rồi một ngày nọ, tôi xin đi tu. Chuyện đi tu không đơn 
giản. Nhà đông người, người ý này, người ý nọ. Nhưng ba mẹ cũng đã chiều
 theo ý tôi. Nha Trang nhiều chùa, nhiều thầy, mẹ phân tích và so sánh 
cho con từng nơi, cho phép con chọn lựa. Con đã chọn vị thầy khó nhất, 
và ngôi chùa ở trên đồi cao nhất: chùa Hải Đức! Tập luyện và học kinh từ
 chùa sư nữ gần nhà, rồi xuất gia nơi ngôi chùa có tiếng chuông linh 
thiêng điểm vào tâm con mỗi sớm. Con trở thành chú tiểu từ đó.
Lần
 đầu về thăm nhà, bỡ ngỡ như một người khách. Đi tu khó không, khổ nhọc 
không? Ánh mắt ba nhìn tôi như trào ra những câu hỏi ấy. Không, ba ơi, 
con vui lắm, con không thấy khổ. Ở chùa, thức dậy lúc ba giờ rưỡi sáng 
ngồi nghe chuông, niệm Phật, đọc các kệ chú, rồi bốn giờ tụng thời công 
phu khuya, giống như thuở bé con thức giấc nghe me tụng đọc kinh Pháp 
Hoa, không khó đâu. Ba không bật ra câu hỏi, tôi cũng không buông ra câu
 trả lời. Cha con nhìn nhau, thương yêu, đầm ấm. 
Một lần khác thăm nhà, chỉ có ba mẹ ngồi bên con, chú tiểu ngơ ngác. Ba ôm vai con, nói:
“Chị
 con du học bên Mỹ đã lấy bằng tiến sĩ văn chương, dạy đại học bên đó, 
ba mẹ rất vui, rất hãnh diện. Nhưng ba có thể nói rằng có một đứa con 
xuất gia, ba me cảm thấy phước báo vô cùng, không niềm vui nào to lớn 
hơn.”
Mẹ gật gù tán đồng, đôi mắt tràn thương yêu nhìn chú tiểu:
“Đúng vậy, đúng vậy đó con.”
Ba
 mẹ đâu nói chi nhiều. Chỉ ngần ấy thôi. Tiễn con về với chùa, theo thầy
 bạn. Một năm, hai năm, ba năm… Con mỗi lúc một xa, không thường về thăm
 nhà. Sinh nhật chú tiểu, mẹ lên chùa thăm con, âm thầm tặng một bài 
thơ, gói theo hộp bánh dẻo. 
Chiều thu thăm con ở chùa
“Đồi mùa thu trải lá
        Non tây hút mặt trời
Sương lành thâu nắng ngã
Chuông chùa ngân chơi vơi…
Dưới thấp bước lên cao
Me để thành phố lại
Bỏ sắc đời hư hao
Quên chuyện đời khôn dại…
Bằng hai bàn tay không
Me ôm đầy tâm niệm
Khuyên con luyện chí đồng
Me quỳ dâng mật nguyện… 
Trở về cao xuống thấp
Sương mớm lá thu vàng
Trên đồi như nai nhỏ
Áo nhật-bình màu lam…” (*)
Mật nguyện của mẹ là gì, chưa bao giờ mẹ nói ra. Con cũng chưa bao giờ hỏi. Mẹ con lẳng lặng giao cảm tâm với tâm. 
Mười
 năm, mười lăm năm, con trôi giạt những phương trời. Ba mẹ âm thầm dõi 
theo bóng con, học ở đâu, tu ở đâu, hành đạo ở đâu… Thoảng khi tương 
ngộ, chỉ im lặng nhìn con, chú tiểu năm xưa đã trưởng thành. Bao năm học
 đạo, phước duyên thọ giáo các bậc đạo hạnh chân tu, biết tâm chí hạnh 
nguyện bây giờ đặt ở cảnh giới nào!
Mười
 bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, 
bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã như ba 
vẫn thường tụng mỗi ngày. Ba không thuộc nhiều kinh, ba chỉ biết tụng 
duy nhất bài kinh ngắn Bát Nhã. Giọng ba tụng lí nhí, nho nhỏ, không 
chuông không mõ. Giờ con cũng tụng cho ba, không mõ không chuông và 
không cả lời.
Hai
 mươi năm, giũ áo ca-sa, thôi không làm tiểu nữa. Mẹ vui con có bạn đời 
tốt, nhưng mẹ cứ khóc. Mẹ ơi, mẹ đừng khóc nữa. Dù thế nào, con vẫn còn 
là chú tiểu năm xưa đây mà! Con biết và con tin như vậy. 
Mẹ
 thấy không? Hai mươi hai năm sau kể từ ngày xa mẹ, khi chân con hãy còn
 chập chững trong dòng đời, bỗng một phút quay nhìn, thấy mình chưa hề 
rời xa chốn ấy. Vẫn là cảnh giới cao đẹp, trong sáng, tĩnh lặng của năm 
nào. Từ đó, con đã viết tặng các chú tiểu, mà cũng là tặng ba mẹ: Thiên Thần Quét Lá.
 Tác phẩm ấy không nói gì cao siêu, chỉ nói cái chí nguyện ban đầu của 
người học đạo. Chí nguyện ấy, một khi đã phát khởi, làm sao có thể mất 
đi được? Dù không còn để chỏm, không còn mặc áo nâu, nhưng việc quét lá,
 là trách nhiệm của con kia mà! Con biết chí nguyện của con không kiên 
cường như mẹ mong đợi. Nhưng con đường, vâng, thưa mẹ, con đường ấy, con
 đã thấy.
Bốn
 mươi năm, nhìn lại. Tóc đã ngã hai màu trên đầu, mà lòng vẫn như con 
trẻ, thiết tha nhớ giọng đọc Bát Nhã của ba; nhớ lời kinh Pháp Hoa mẹ 
tụng; nhớ tiếng chuông chùa nuôi dưỡng tâm con từ ấu thời. Chính những 
âm thanh, ngôn từ, cảm xúc, ý chí, tâm tư ấy, đẩy con xa khỏi vòng tay 
yêu thương của ba mẹ đến mấy mươi năm. Và trên bước viễn hành, con đường
 càng lúc càng mở rộng theo sự dìu dắt bởi các bậc thầy của con. Nhưng 
con không bao giờ quên rằng, ba mẹ chính là những vị thầy dẫn đạo ban 
đầu, đưa con vào lộ trình thênh thang của một thiên thần quét lá.
California, ngày 19 tháng 7 năm 2011.
Vĩnh Hảo