Điều đó không 
								khỏi làm chúng ta ngạc nhiên, bởi vì bài kinh 
								này đứng một vị trí quan trọng, có thể nói là 
								duy nhất, trong kho tàng kinh điển Phật giáo, vì 
								một số lý do: thứ nhất, đó là một tài liệu lịch 
								sử, xã hội quý báu về giai đoạn cuối đời đức 
								Phật; thứ nhì, kinh chứa đựng một cách cô đọng 
								những điểm căn bản, chính yếu của giáo lý đạo 
								Phật; và thứ ba, kinh cho ta thấy sự chuyển biến 
								từ một con đường giải thoát dưới sự hướng dẫn 
								của một vị Thầy, tới một tín ngưỡng dân gian với 
								sự sùng bái di tích của một đấng Thế Tôn. 
								
								
								
								 
								
								
								Nguồn gốc của 
								Kinh 
								
								
								Kinh Đại Bát Niết 
								Bàn là bài kinh nói về giai đoạn cuối đời của 
								đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới 
								khi Ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
								
								
								
								Đầu tiên, chúng 
								ta hãy tìm hiểu về ý nghĩa của tên kinh: "Đại 
								Bát Niết Bàn" (Mahāparinibbāna). Mahā tiếng Pali 
								có nghĩa là to lớn (tiếng Hán là Đại), pari là 
								hoàn toàn, nibbana là Niết Bàn. Parinibbana/Parinibbāna 
								(phiên âm sang tiếng Hán là Bát Niết Bàn) là sự 
								tịch diệt hoàn toàn (extinction complète), sự 
								chấm dứt hoàn toàn và vĩnh viễn của vòng sanh tử. 
								Đó là từ dùng để chỉ định sự ra đi, lìa khỏi cõi 
								đời của các vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác (samma 
								sambuddha), Phật Độc Giác (pacceka-buddha) và A 
								La Hán (arahant)(chú thích 1), khác với cái chết 
								của người thường (marana).
								
								
								Ngoài ra, khái 
								niệm "hoàn toàn tịch diệt" (parinibbuta) cũng 
								được dùng để chỉ định trạng thái tâm linh của 
								các vị Phật, Độc Giác và A La Hán, khi còn tại 
								thế. 
								
								
								Do đó, chúng ta 
								thấy có mặt trong kinh điển hai từ: 
								
								
								
								1) Sopadisesa 
								parinibbana, là sự tịch diệt hoàn toàn, sự nhổ 
								tận rễ những lậu hoặc, ô nhiễm, kiết sử, nhưng 
								vẫn còn những thể chất của đời sống (Hán: hữu dư 
								y Niết Bàn). 
								
								
								2) Anupadisesa 
								parinibbana, là sự tịch diệt hoàn toàn, ngay cả 
								những thể chất của đời sống (Hán : vô dư y Niết 
								Bàn). Đó là khi các vị Phật, Độc Giác và A La 
								Hán lìa bỏ thể xác và cõi đời. 
								
								
								
								Sopadisesa 
								parinibbana còn được coi như là kilesa 
								parinibbana, sự dứt bỏ hoàn toàn những ô nhiễm, 
								kiết sử, và anupadisesa parinibbana như là 
								khandha parinibbana, sự dứt bỏ hoàn toàn những 
								uẩn. 
								
								
								Như vậy, không 
								phải chỉ có đức Phật Thích Ca mới nhập Bát Niết 
								Bàn, nhưng Kinh Đại Bát Niết Bàn (chữ Đại chỉ 
								định sự tôn kính) là bài kinh nói về sự nhập Bát 
								Niết Bàn của đức Phật Thích Ca. 
								
								
								
								Để tránh mọi ngộ 
								nhận, chúng ta phải nói ngay rằng có hai bài 
								kinh mang tên là Đại Bát Niết Bàn : 
								
								
								
								- một bài thuộc 
								hệ Phật giáo Nguyên Thủy (chú thích 2)(Nam tông), 
								nguyên văn viết bằng chữ Pali, và 
								
								
								
								- một bài thuộc 
								hệ Phật giáo Đại Thừa (Bắc tông), nguyên văn 
								viết bằng chữ Phạn (sanskrit), dịch sang chữ Hán 
								và chữ Tây Tạng. Phải nói rằng đó là một trong 
								những bài kinh nguyên văn chữ Phạn hiếm có còn 
								tồn tại, đa số những bài khác đã bị thất lạc và 
								chỉ còn lại dưới bản dịch sang chữ Hán và chữ 
								Tây Tạng. 
								
								
								Kinh Đại Bát Niết 
								Bàn Nguyên Thủy, viết bằng chữ Pali (Mahāparinibbāna-Sūtta), 
								là bài kinh dài nhất trong Tam Tạng kinh điển (Tipitaka), 
								thuộc vào Trường Bộ Kinh (Digha-nikaya). Người 
								ta cho rằng bản kinh ban đầu được thành hình mấy 
								chục năm trời sau khi đức Phật tịch diệt, bằng 
								tiếng Prakrit, một ngôn ngữ rất gần với tiếng 
								Pali, và sau đó bị nhiều đổi thay trong một, hai 
								thế kỷ tùy theo những nhu cầu giáo lý và tổ chức 
								của đoàn thể tăng già. Lời kinh được truyền khẩu 
								từ thế hệ này qua thế hệ khác, và chỉ được ghi 
								chép lại vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước CN. Toàn 
								phần kinh Pali được ghi chép vào khoảng thế kỷ 
								thứ 1 trước CN, nhưng vẫn còn tiếp tục được 
								truyền khẩu nhiều năm sau. 
								
								
								Kinh Đại Bát Niết 
								Bàn Đại Thừa, nguyên văn bằng chữ Phạn (Mahā-Parinirvana-Sūtra) 
								thuộc vào trường phái Mula-Sarvastivada, một chi 
								nhánh của phái Sarvastivada (Nhất Thiết Hữu Bộ), 
								xuất hiện khá muộn và thất truyền từ lâu. Kinh 
								được dịch sang chữ Hán từ khoảng thế kỷ thứ 3 
								tới thứ 5 sau CN, dưới những tựa đề khác nhau (Phật 
								Thuyết Phương Đẳng Bát Nê Hoàn Kinh, Đại Bát Nê 
								Hoàn Kinh,...). Một trong những bản đó là do 
								Ngài Pháp Hiển sang Tích Lan mang về và dịch 
								cùng với Buddhabadra năm 417. Năm 421, tại miền 
								Bắc Trung Hoa, nhà sư Ấn Độ Dharmaksema cũng 
								dịch một bản kinh dài hơn, được bổ túc bằng một 
								số đoạn trong một bản kinh viết tay tìm thấy tại 
								Khotan (miền Tây Tân Cương). 
								
								
								Tại Tây Phương, 
								Kinh Đại Bát Niết Bàn đã được giới học giả đặc 
								biệt chú ý đến từ cuối thế kỷ 19 qua những bản 
								dịch từ tiếng Pali sang tiếng Anh bởi T.W. 
								Rhys-David (1881-1910), qua những công trình 
								nghiên cứu tiếng Đức của E. Waldschmidt (từ 1944 
								đến 51) và nhất là qua công trình nghiên cứu của 
								nhà Phật học Pháp André Bareau (từ 1970 đến 
								1975). 
								
								
								Trong những học 
								giả Tây phương, có lẽ André Bareau là người đã 
								có công phu nghiên cứu nhất về các bản kinh Đại 
								Bát Niết Bàn. Ông đem đối chiếu 7 bản kinh khác 
								nhau, 1 viết bằng chữ Pali, 1 bằng chữ Phạn và 5 
								bằng chữ Hán, soạn thảo trong những thời kỳ khác 
								nhau và thuộc về những trường phái khác nhau.
								
								
								
								Về bản dịch ra 
								tiếng Việt, thì cũng có hai bài kinh Đại Bát 
								Niết Bàn, một bài dịch từ chữ Pali bởi HT Thích 
								Minh Châu, và một bài dịch từ chữ Hán bởi HT 
								Thích Trí Tịnh. 
								
								
								Như đã nói trên, 
								chúng ta nên để ý đó là hai bài kinh khác nhau, 
								một bài thuộc hệ thống Nguyên Thủy, và một bài 
								thuộc hệ thống Đại Thừa. 
								
								
								Tuy rằng cả hai 
								đều có liên quan tới giai đoạn cuối đời của đức 
								Phật trước khi Ngài nhập Niết Bàn, nhưng có 
								nhiều sự khác biệt về hình thức cũng như về nội 
								dung. Bài kinh Đại Thừa dài hơn bài kinh Nguyên 
								Thủy nhiều, vì có thêm nhiều bài kinh khác. Bản 
								dịch của HT Thích Trí Tịnh được in làm 2 quyển, 
								dầy 1500 trang, chia ra làm 29 phẩm, trong khi 
								bản dịch của HT Thích Minh Châu chỉ có 53 trang 
								A4, chia ra làm 6 phẩm. Trong kinh Nguyên Thủy, 
								đức Phật giảng dạy cho Ananda (A-Nan), vừa là em 
								họ, thị giả và đệ tử thân cận nhất của Ngài, 
								trong khi trong kinh Đại Thừa, đức Phật giảng 
								dạy cho Mahā-Kassapa (Đại Ca Diếp), là vị đại đệ 
								tử của Ngài. Chúng ta sẽ bàn sau về những khác 
								biệt về nội dung của những lời giảng dạy đó.
								
								
								
								Trong khuôn khổ 
								bài này, chúng ta sẽ chủ yếu nói về Kinh Đại Bát 
								Niết Bàn bản Pali, vì những lý do sau: thứ nhất, 
								đó là bài kinh xuất hiện sớm nhất đứng về mặt 
								lịch sử, thứ nhì (cũng liên quan đến điểm trên), 
								những sự kiện lịch sử, xã hội có khả năng được 
								mô tả một cách trung thành nhất, và thứ ba, 
								những lời giảng dạy trong kinh có khả năng gần 
								với những lời dạy cuối cùng của đức Phật nhất.
								
								
								
								 
								
								
								Những hạn chế về 
								thông tin khách quan trong kinh 
								
								
								
								Trong Tam Tạng 
								kinh điển, trên nguyên tắc Kinh (Sūtra) là những 
								lời dạy của đức Phật. Thật ra, ai nấy đều biết 
								rằng đó chỉ là những lời ghi lại về lời dạy của 
								đức Phật. 
								
								
								Do đó, cũng như 
								đa số các bài kinh, kinh Đại Bát Niết Bàn bắt 
								đầu bằng: "Tôi nghe như vầy" (Pali: evam me 
								sūtram, Hán: Như thị ngã văn), nghĩa là lời mở 
								đầu của soạn giả - hay đúng hơn các soạn giả - 
								trước khi ghi lại những gì các người đó đã được 
								nghe thấy, lặp đi lặp lại nhiều lần. 
								
								
								
								Đó là một trong 
								những đặc điểm đáng ghi nhớ của kinh điển Pali. 
								Trước khi được ấn định và in lại thành kinh sách, 
								sớm nhất là vào khoảng thế kỷ thứ 1 trước CN, 
								lời kinh đã được truyền khẩu, truyền tụng, kết 
								tập từ thế hệ này qua thế hệ khác, và do đó 
								không tránh khỏi bị thêm bớt, thay đổi ít nhiều, 
								một cách vô tình hay cố ý. Hơn nữa, nhiều câu 
								được cố ý lặp đi lặp lại nhiều lần, trong mục 
								đích giáo dục, để được ghi nhớ, học tập cho 
								thuần thục bởi các tăng ni và cư sĩ. 
								
								
								
								Kinh Đại 
								Bát Niết Bàn Đại Thừa được phỏng dịch từ tiếng 
								Pali sang tiếng Phạn, rồi từ tiếng Phạn sang 
								tiếng Hán, cho nên lại càng có khả năng bị thay 
								đổi nhiều hơn nữa, với thời gian và không gian. 
								Do đó, như đã nói, chúng ta có thể nghĩ rằng bài 
								kinh Pali gần với các sự kiện lịch sử, xã hội và 
								với giáo lý nguyên thủy của đạo Phật hơn.
								
								
								
								Tuy nhiên, vì 
								những lý do nói trên, chúng ta phải hết sức thận 
								trọng về những thông tin lịch sử, xã hội chứa 
								đựng trong kinh, cũng như nhà Phật học André 
								Bareau đã nhìn nhận một cách khiêm tốn: "Tất cả 
								chỉ là những giả thuyết, càng phải xem xét một 
								cách ngờ vực khi chúng càng tỏ ra táo bạo" và "Viết 
								về cuộc đời đức Phật là một công trình vô vọng"...
								
								
								
								Kinh 
								Đại Bát Niết Bàn Pali, gồm 6 phẩm, kể lại một 
								cách khá tỉ mỉ chuyến đi cuối cùng của đức Phật 
								Thích Ca với một số đệ tử của Ngài, trong sáu 
								tháng trời, từ thành phố Rajagaha, thủ đô xứ 
								Maghada, tới Kusinara, một thị trấn nhỏ của dân 
								tộc Mallan, cách nhau khoảng 450 km (xem bản 
								đồ). Ngài đi qua những nơi như Nalanda, sau này 
								trở thành một trung tâm Phật học nổi tiếng, 
								Patali-gama (trở thành Pataliputta, thủ đô về 
								sau của xứ Maghada), và Vesali (thủ đô xứ Vajji) 
								(chú thích 3). Lúc đó, Ngài đã già yếu, ốm đau 
								trầm trọng, nhưng vẫn không ngừng thuyết giảng 
								cho tới khi Ngài diệt độ tức là nhập Bát Niết 
								Bàn, để lại nhục thân được hỏa táng một cách 
								trọng thể. 
								
								
								Chúng ta sẽ lần 
								lượt tìm hiểu về ba khía cạnh : lịch sử - xã hội, 
								tâm lý - tình cảm, và giáo lý - những lời dạy 
								cuối cùng của đức Phật.
								 
								
								
								
								
								
								 
								
								
								Về bệnh tình và 
								sự tịch diệt của đức Phật
								
								
								Lúc bấy giờ, đức 
								Phật đã già yếu lắm, như lời của Ngài nói với 
								Ananda: "Này 
								Ananda, ta nay đã già nua, mỏi mòn trước gánh 
								nặng thời gian. Ta đã tới những ngày cuối cùng 
								của cuộc đời, đã tám mươi tuổi rồi. Cũng như một 
								chiếc xe cũ kỹ chỉ còn chạy được nhờ buộc đầy 
								giây dựa, cơ thể của Như Lai cũng chỉ đi lại 
								được nhờ chữa chạy thuốc men". Trong 
								Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta-nikaya) cũng có một 
								đoạn đức Phật nói về sức khoẻ của Ngài: "Thật 
								vậy Ananda, tuổi già thay thế tuổi trẻ, bệnh tật 
								đẩy lui sự khoẻ mạnh, cái chết làm ngưng sự sống. 
								Mầu da của ta không còn tươi tốt và trong sáng 
								như xưa; bắp thịt chân tay ta yếu đi và da nhăn 
								nheo; thân thể ta nghiêng về phía trước; sự thay 
								đổi cũng thấy rõ trên các giác quan..."
								
								
								
								Cuối phẩm 2, bệnh 
								tình của đức Phật được mô tả như sau: "Trong 
								khi Thế Tôn bắt đầu an cư trong mùa mưa (chú 
								thích 4) tại làng Beluva, gần Vesali, một cơn 
								bệnh trầm trọng khởi lên, làm Ngài vô cùng đau 
								đớn, gần như muốn chết. Nhưng Ngài 
								giữ tâm chánh niệm, tỉnh giác, và chịu đựng cơn 
								đau một cách bình thản. Rồi Ngài nghĩ: 'Thật là 
								không phải nếu ta nhập Bát Niết Bàn mà không báo 
								trước những đệ tử thân cận và nói chuyện với 
								đoàn thể tăng già; ta phải cố gắng trấn áp bệnh 
								tật, ở lại trên đời bằng cách phục hồi sức 
								sống'. Nhờ đó, bệnh tật của Ngài thuyên giảm 
								lần lần". 
								
								
								Tới phẩm 4, bệnh 
								của Ngài lại tái phát, khi Ngài cùng với đại 
								chúng tỳ kheo tới Pava, tại rừng xoài của người 
								thợ sắt Cunda. Ngài được Cunda mời cơm, và món 
								ăn đặc biệt chỉ riêng Ngài dùng là món 
								sukkaramaddava (một loại nấm mộc nhĩ mọc trên gỗ 
								đàn hương). "Sau đó, Thế Tôn bị nhiễm bệnh 
								nặng và xuất huyết, đau đớn gần như muốn chết. 
								Ngài vẫn chánh niệm, tỉnh giác, và chịu đựng cơn 
								bệnh một cách bình thản". 
								
								
								Trên con đường đi 
								tới Kusinara, Thế Tôn cảm thấy mệt mỏi và muốn 
								ngồi nghỉ. Ngồi dưới gốc cây, Ngài cảm thấy khát 
								và muốn uống nước. Uống nước xong, Ngài giảng 
								pháp cho Pukkusa, một hoàng tử dòng họ Mallan, 
								và vị này, sau khi qui y Tam bảo, cúng dường 
								Ngài một cặp áo mầu kim sắc. Mặc áo trên mình, 
								mầu da của Ngài trở nên trong suốt và sáng chói.
								
								
								
								Sau đó,
								Thế 
								Tôn xuống tắm sông Kakuttha, rồi cảm thấy người 
								mỏi mệt và nằm nghỉ, nghiêng bên tay phải, trong 
								tư thế sư tử. Cuối cùng (phẩm 5), Ngài đi tới 
								khu rừng sala của dòng họ Mallan, gần thị trấn 
								Kusinara, nằm xuống giữa hai cây sala lớn trong 
								tư thế sư tử, và tịch diệt vào canh cuối của 
								buổi đêm (phẩm 6). 
								
								
								Mặc dầu kinh 
								không ghi nhiều chi tiết về bệnh tình của đức 
								Phật, nhưng chúng ta cũng có thể phỏng đoán rằng 
								Ngài bị một bệnh tiêu hóa mạn tính trầm trọng, 
								vì chỉ có bệnh tiêu hóa mới gây nên những cơn 
								đau dữ dội và xuất huyết, trong những giai đoạn 
								cấp hóa. Tuy không thể gạt bỏ giả thuyết ung thư 
								ruột, nhưng có nhiều khả năng hơn đó là một bệnh 
								hiền tính, như loét dạ dầy - tá tràng, hay bệnh 
								viêm ruột xuất huyết (colite hémorragique). Bệnh 
								này có thể bị khởi động bởi món nấm mộc nhĩ Ngài 
								đã ăn, bởi vì đã có những nghiên cứu khoa học 
								cho biết rằng loại nấm mộc nhĩ (hay "tai mèo") 
								có tác dụng chống tiểu cầu và làm loãng máu, do 
								đó có thể gây chảy máu nơi một tổn thương tiêu 
								hóa. Lý do tử vong có thể là xuất huyết, gây nên 
								mệt mỏi, khát nước và khiến cho mầu da trở nên 
								lợt lạt vì thiếu máu. Cuối cùng, có khả năng là 
								huyết áp Ngài xuống thấp dần, gây mê man trong 
								khi Ngài nhập định rồi tịch diệt. 
								
								
								
								Dĩ nhiên, tất cả 
								những điều nói trên chỉ là sự phỏng đoán liều 
								lĩnh của một người thầy thuốc chỉ cầm trong tay 
								một bệnh án sơ sài và mơ hồ, truyền khẩu lại từ 
								2500 năm... 
								
								
								 
								
								
								Về tang lễ của 
								đức Phật 
								
								
								Có một điều mà 
								chúng ta thấy rất rõ trong kinh, là đức Phật 
								được mọi người vô cùng kính trọng ngay trong khi 
								Ngài còn tại thế. Điển hình là: 
								
								
								
								- Khi nhà vua 
								Ajatasattu (A-Xà-Thế), xứ Maghada, lúc bấy giờ 
								rất hùng mạnh sau khi chinh phục được xứ Kosala, 
								có ý muốn dấy binh chinh phạt dân Vajjin, liền 
								gửi một vị đại thần tới tham vấn đức Phật (phẩm 
								1). Sau khi nghe đức Phật phân tích 7 lý do vì 
								sao dân Vajjin tiếp tục cường thịnh, không suy 
								đồi và không thể bị đánh bại được, nhà vua từ bỏ 
								ý định xâm lấn xứ Vajji. Chuyện này chứng tỏ ảnh 
								hưởng rộng lớn của đức Phật trên lãnh vực chính 
								trị, xã hội, và sự ngưỡng mộ, tin tưởng của các 
								vua chúa thời bấy giờ đối với Ngài. 
								
								
								
								- Đức Phật đi tới 
								đâu cũng được đón tiếp một cách kính trọng (chú 
								thích 5), như các vị đại thần Sunidha và 
								Vassakara xứ Maghada, các hoàng tử Licchavin, 
								hay những kẻ giầu có như cô Ambapali, người thợ 
								sắt Cunda, đều tranh nhau mời Ngài dùng cơm, với 
								những bữa tiệc rất thịnh soạn. 
								
								
								
								- Hai vị đại thần 
								trên còn nói :"Hôm nay, nếu Ngài Gotama đi ra 
								thành bằng cửa nào, chúng tôi sẽ gọi cửa đó là 
								cửa Gotama, nếu Ngài đi qua sông bằng bến nào, 
								chúng tôi sẽ gọi bến đó là bến Gotama" (cuối 
								phẩm 1). 
								
								
								- Sau khi Pukkusa, 
								một hoàng tử dòng họ Mallan, đệ tử của Alara 
								Kalama, thấy thái độ trầm tĩnh của Ngài với định 
								lực trội hơn hẳn thầy của mình, ông liền xin qui 
								y Tam Bảo, và cúng dường cho đức Phật một cặp áo 
								mầu kim sắc vàng chói (phẩm 4). 
								
								
								
								Vì vậy, chúng ta 
								không ngạc nhiên khi thấy tang lễ của Ngài được 
								cử hành một cách vô cùng trọng thể. Và cũng vì 
								lý do đó, tổ chức tang lễ không còn là việc của 
								tăng đoàn mà được giao phó cho các cư sĩ, cho 
								dân làng đảm nhiệm (phẩm 6). 
								
								
								Sau khi đức Thế 
								Tôn tịch diệt ở rừng cây sala, dân Mallan ở 
								Kusinara tụ họp nhau lại, cung kính đảnh lễ nhục 
								thể của Ngài, với các điệu múa, ca nhạc, tràng 
								hoa, và hương thơm trong suốt một tuần. Nhục thể 
								của Ngài sau đó được rước đi qua các cửa thành, 
								rồi vấn bằng năm trăm lớp loại vải mới và vải 
								bông, đặt vào một hòm thiếc đầy dầu, rồi trong 
								một hòm thiếc nữa. Cuối cùng, hòm được đặt lên 
								giàn lửa gồm nhiều thứ gỗ thơm và được hỏa thiêu.
								
								
								
								Như vậy, theo các 
								soạn giả của Kinh, tang lễ của đức Phật không 
								những được cử hành một cách trọng thể, mà còn 
								một cách rất đặc biệt, như một Chuyển Luân Vương 
								(cakkavatti), hay Pháp Vương (roi universel), 
								ngự trị thế giới không phải bằng bạo lực hay 
								pháp luật, mà bằng sự đức độ và lòng từ bi.
								
								
								
								Sự hiện diện của 
								Thiên chủ Sakka, của Brahma Sahampati, và nhiều 
								vị thần linh khác trong tang lễ của Ngài là một 
								điều hoàn toàn khác biệt với đạo Bà La Môn, vì 
								đối với đạo này nhục thể của con người là bất 
								tịnh và phải được tránh xa bởi các thần linh. Ý 
								nghĩa của sự hiện diện này là, khi một con người 
								đạt tới Chánh Đẳng Chánh Giác, thì vị ấy vượt 
								lên cả các thần linh và Brahma, và khi vị ấy 
								nhập Bát Niết Bàn, thì ngay cả các thần linh 
								cũng phải đến nơi đảnh lễ. 
								
								
								Điểm khác thứ nhì 
								là những xá lợi, di tích nhục thể của Ngài, cũng 
								như của các vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác, Phật 
								Độc Giác, A La Hán và Chuyển Luân Vương, sẽ được 
								thờ phụng trong những chiếc tháp (thupa). Đồng 
								thời những địa phương nơi đức Phật Thích Ca đã 
								ra đời, thành đạo, chuyển Pháp luân, và nhập Bát 
								Niết Bàn (Lumbini, Bodh-gaya, Sarnath, Kusinara) 
								sẽ trở thành những thánh địa, những điểm hành 
								hương đối với các Phật tử, đánh dấu sự khởi đầu 
								của một tín ngưỡng dân gian. 
								
								
								Ngay sau khi hỏa 
								thiêu, sự tranh giành xá lợi của đức Phật bởi 
								các vua chúa và các vị trưởng tộc trong vùng 
								suýt nữa gây nên một cuộc chiến lớn, nhưng nhờ 
								sự can thiệp khéo léo của Bà La Môn Dona, cho 
								nên xá lợi của Ngài được phân chia làm 8 phần 
								đồng đều, cộng với phần tro còn lại và chiếc 
								bình đựng xá lợi, tất cả thành 10 tháp được xây 
								và thờ cúng mỗi nơi. 
								
								
								Chúng ta có thể 
								nhận thấy rằng đức Phật Thích Ca xuất thân là 
								một vị thái tử thuộc hoàng tộc, sau đó sống một 
								cuộc đời sa môn, khất thực, và cuối cùng tịch 
								diệt và được hỏa táng như một Chuyển Luân Vương...
								
								
								
								Sự cử hành tang 
								lễ trọng thể, cũng như sự thờ cúng xá lợi trong 
								bảo tháp, nhất quyết không phải là ý nguyện của 
								một người đã hoàn toàn giải thoát như đức Phật. 
								Do đó, chúng ta có thể nghĩ rằng những lời gán 
								cho Ngài về vấn đề này đã được các nhà soạn giả 
								bài kinh đưa vào cho thêm phần long trọng. Vả 
								lại, trong một đoạn khác, đức Phật có nói: "Này, 
								Ananda, không phải như vậy tức là kính trọng, 
								tôn sùng, đảnh lễ Như Lai. Nếu một tỳ kheo, tỳ 
								kheo ni, nam hay nữ cư sĩ đi theo con đường 
								Chánh Pháp, sống hòa hài trong Chánh Pháp, hành 
								trì đúng Chánh Pháp, thì người ấy kính trọng, 
								tôn sùng, đảnh lễ Như Lai. Đó mới là đảnh lễ tối 
								thượng" (phẩm 5). 
								
								
								 
								
								
								Về những hiện 
								tượng siêu nhiên 
								
								
								Trong kinh, chúng 
								ta nhận thấy có nhiều hiện tượng siêu nhiên, 
								huyền diệu xẩy ra, tuy rằng không nhiều bằng 
								trong Kinh Đại Bát Niết Bàn Đại Thừa. 
								
								
								
								Các hiện tượng 
								siêu nhiên đó có thể được phân chia làm hai loại: 
								một là những khả năng đặc biệt, do thần thông 
								của đức Phật, và hai là các hiện tượng siêu 
								nhiên ngoài những khả năng trên. 
								
								
								
								Trong loại đầu, 
								chúng ta có thể liệt kê đoạn xảy ra tại 
								Patali-gama (Pataliputta), trong lúc hai vị đại 
								thần xứ Maghada đang xây thành để ngăn chận dân 
								Vajjin, đức Phật dùng huệ nhãn nhìn thấy hàng 
								ngàn vị thần linh tụ họp tại đây. Sau đó, khi 
								tới bờ sông Hằng vào mùa nước lớn, Ngài vụt biến 
								qua bên bờ kia, như người ta co duỗi cánh tay, 
								trong khi những kẻ khác đang tìm thuyền bè để 
								qua sông (phẩm 1). Và khi Ananda hỏi Ngài về hậu 
								thế của một số tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ sau 
								khi mệnh chung, thì Ngài nhờ huệ nhãn nhìn rõ 
								hậu thế của từng người và trả lời một cách rành 
								mạch (phẩm 2). Đến khi căn bệnh của Ngài nổi lên 
								tại Beluva, đức Phật dùng chánh niệm, tỉnh giác 
								để nhiếp phục cơn đau, và duy trì mạng sống (phẩm 
								2). Nhưng rồi Ngài cũng quyết định, trước lời 
								khích dụ của Ma Vương (Mara Papima), không còn 
								duy trì mạng sống, và sẽ diệt độ ba tháng sau, 
								mặc dầu Ngài có khả năng kéo dài thọ mạng của 
								mình nếu được Ananda thỉnh cầu (phẩm 3). 
								
								
								
								Khi căn bệnh của 
								đức Phật tái phát, làm Ngài khát nước và muốn 
								uống nước, thì nước sông vừa bị khuấy động, vẩn 
								đục bỗng trở nên trong vắt. Một hiện tượng siêu 
								nhiên nữa xảy ra sau khi đức Phật mặc vào người 
								cặp áo mầu kim sắc Ngài mới được tặng: mầu da 
								của Ngài trở nên trong suốt và sáng chói, làm lu 
								mờ cả áo mầu kim sắc (phẩm 4). Và khi Ngài tới 
								rừng sala tại Kusinara và nằm xuống giữa hai cây 
								sala, thì cây trổ hoa trái mùa, gieo khắp và 
								tung vãi trên thân Ngài, cùng với bột chiên đàn, 
								và ca nhạc trên hư không nổi lên để cúng dường 
								Ngài (phẩm 5). 
								
								
								Cuối cùng, trước 
								khi diệt độ, Ngài nhập sơ thiền, rồi nhị thiền, 
								rồi tam thiền, rồi tứ thiền, rồi không vô biên 
								xứ, rồi thức vô biên xứ, rồi vô sở hữu xứ, rồi 
								phi tưởng phi phi tưởng xứ, rồi diệt thọ tưởng 
								định, rồi đi ngược lại một lần nữa cho tới tứ 
								thiền, trước khi nhập Bát Niết Bàn (phẩm 6)(chú 
								thích 6). 
								
								
								Ngay sau khi đức 
								Phật nhập Bát Niết Bàn, mặt đất bỗng chấn động 
								một cách khủng khiếp, làm lông tóc dựng ngược, 
								cùng với trống trời vang dội. Hiện tượng đó cũng 
								đã xẩy ra khi Ngài đã quyết định ba tháng trước 
								sẽ diệt độ và không còn duy trì mạng sống. Cùng 
								lúc Ngài diệt độ, Phạm Thiên (Brahma) và Thiên 
								chủ Sakka đều thốt lên một bài kệ, và cùng với 
								chư Thiên đảnh lễ Ngài. 
								
								
								Trong khi cử hành 
								tang lễ Thế Tôn (phẩm 6) cũng xẩy ra một số hiện 
								tượng siêu nhiên: đó là khi tám vị trưởng tộc 
								Mallan cố khiêng nhục thể của Ngài lên thì 
								khiêng lên không nổi, vì lý do chư Thiên không 
								muốn thân Ngài được chở ra ngoài thành về phía 
								Nam mà muốn chở thân Ngài về phía Bắc cửa thành, 
								rồi vào trung tâm, rồi vào phía Đông cửa thành. 
								Và khi họ châm lửa lên để hỏa thiêu thì châm lửa 
								không cháy, cũng vì lý do chư Thiên muốn vị đại 
								đệ tử Mahā-Kassapa đến cùng với đại chúng tỳ 
								kheo đảnh lễ Ngài trước. Đảnh lễ xong, giàn lửa 
								tự nhiên bốc cháy. Sau khi thân Thế Tôn đã cháy 
								hết, những dòng thác nước từ trên không đổ xuống 
								và từ dưới đất phun lên làm tắt ngay giàn lửa.
								
								
								
								Sự có mặt của 
								những hiện tượng siêu nhiên, huyền diệu này 
								trong một bài kinh thuộc hệ thống Nguyên Thủy có 
								thể làm chúng ta ngạc nhiên, nhưng thật ra có 
								thể giảng nghĩa được một cách hợp lý bằng những 
								lý do sau: 
								
								
								- Ngay sau khi 
								đức Phật viên tịch, và nhất là trong những thế 
								kỷ sau, đã có một sự chuyển biến đáng kể xảy ra, 
								đó là sự xuất hiện của một tín ngưỡng dân gian, 
								dựa lên sự tôn thờ đức Phật qua những di tích 
								của Ngài nơi các bảo tháp (thupa) và thánh địa. 
								Một dấu hiệu tiêu biểu là tang lễ của Ngài được 
								cử hành không phải bởi tăng đoàn mà bởi các cư 
								sĩ. 
								
								
								- Do đó chúng ta 
								có thể phỏng đoán rằng những hiện tượng siêu 
								nhiên, mầu nhiệm đã được ghi thêm, thêu dệt bởi 
								các soạn giả của bài kinh, trong mục đích làm 
								gia tăng sự sùng kính, tín ngưỡng đó, đồng thời 
								để đối phó với đối thủ đương thời, là đạo Bà La 
								Môn. 
								
								
								- Chúng ta cũng 
								có thể nhìn những hiện tượng siêu nhiên đó như 
								là những hình ảnh biểu tượng, tức là dùng theo 
								nghĩa bóng. Chẳng hạn như khi đức Phật vụt biến 
								qua bên bờ kia sông Hằng, trong khi những kẻ 
								khác đang tìm thuyền bè để qua sông, thì như lời 
								Ngài nói kệ (cuối phẩm 1): 
								
								
								"Những ai đã 
								bắc cầu, đi qua dòng nước lũ tham ái, 
								
								
								
								Tránh đất sũng 
								đầm ao, đạt được giải thoát. 
								
								
								
								Trong khi những 
								người phàm phu đang cột bè, 
								
								
								
								Để vượt qua dòng 
								sông nhỏ, 
								
								
								Thì những bậc trí 
								tuệ, đã qua dòng nước lũ tham ái, 
								
								
								
								Vượt qua dòng 
								sông nhỏ dễ dàng".
								
								
								
								Và khi một người 
								như đức Phật đạt Chánh Đẳng Chánh Giác, hay nhập 
								Niết Bàn, ức kiếp mới có một lần, thì chẳng phải 
								là một điều kinh thiên động địa, khiến đất trời 
								rung chuyển, tất cả thế giới mười phương đều 
								phải đảnh lễ đó ư? Hình ảnh hoa sala nở rộ trái 
								mùa, gieo khắp và tung vãi trên thân Ngài, cùng 
								với bột chiên đàn, và ca nhạc trên hư không nổi 
								dậy, phải chăng chỉ là biểu tượng của sự đảnh lễ 
								của thiên nhiên đối với một bậc trí tuệ siêu 
								phàm đã vượt lên trên tất cả, trời người? 
								
								
								
								 
								
								
								Về mặt tâm lý, 
								tình cảm 
								
								
								Kinh Đại Bát Niết 
								Bàn có lẽ là bài kinh nặng về tình cảm và có 
								tính chất "người" nhất, vì gây nhiều cảm xúc cho 
								người đọc, và mang nặng nghĩa thầy trò, lòng 
								nhân ái. Có những đoạn làm người đọc bỗng dưng 
								cảm thấy nghẹn ngào, rưng rưng nước mắt, thậm 
								chí khóc sướt mướt! 
								
								
								Khi thấy vị thầy 
								thương kính của mình già nua, bệnh tật, chịu 
								đựng cơn đau không hề ta thán, Ananda, người đệ 
								tử thân cận của đức Phật, tới thăm Ngài và nói: 
								"Con thấy đức Thế Tôn đã khoẻ mạnh hơn. Nhưng 
								khi con thấy đức Thế Tôn bị bệnh, con cảm thấy 
								người yếu đuối như một cành giây leo. Đối với 
								con, hướng đi không sáng tỏ và tất cả đều đen 
								tối" (phẩm 2). 
								
								
								Và khi Ananda 
								thấy sức khoẻ của vị thầy mình sa sút dần đi, 
								ông đi vào tịnh xá, dựa lên cột cửa và đứng khóc: 
								"Ta hãy còn là một kẻ sơ học, còn nhiều điều 
								phải tu tập. Vị thầy kính thương của ta sắp sửa 
								nhập Bát Niết Bàn. Rồi đây, sẽ không còn ai 
								hướng dẫn ta nữa!" (phẩm 5). Đức Phật được 
								biết, liền cho người đi gọi người thị giả thân 
								thiết đó, và vỗ về an ủi ông: "Thôi, Ananda, 
								đừng có buồn rầu, than khóc. Đã biết bao lần, ta 
								đã chẳng nói cho ngươi rằng tất cả những gì đáng 
								quý, tốt đẹp đều phải đổi thay, đều phải hư hoại, 
								đều phải hủy diệt ư? Làm thế nào có thể khác 
								được, Ananda? Cái gì đã sanh ra, hiện hữu, hữu 
								vi, là có tính chất vô thường, vậy thì làm sao 
								có trường hợp mà người ta có thể ước mong rằng: 
								"Cái đó sẽ ở luôn như vậy, và không bao giờ biến 
								mất?". Sau đó, Đức Phật tán thán công đức và 
								ca ngợi các đức tính của người thị giả: "Hãy 
								can đảm lên, Ananda, không bao lâu nữa ngươi sẽ 
								tự giải thoát khỏi các lậu hoặc". 
								
								
								
								Như trong mọi 
								tang lễ, có nhiều người than khóc sau khi đức 
								Phật nhập Bát Niết Bàn (phẩm 6). Có những Tỳ 
								kheo và cư sĩ khóc than, vật vã thân hình hay 
								lăn qua lộn lại: "Thế Tôn diệt độ quá sớm! 
								Thiện Thệ diệt độ quá sớm! Con Mắt thế gian (dhamma 
								cakku) biến mất quá sớm!" Đó là những người 
								chưa nhổ được rễ tham ái (avitaraga), còn những 
								người đã nhổ được rễ tham ái (vitaraga) thì an 
								trú trong chánh niệm, tỉnh giác và tự nhủ: "Các 
								hành là vô thường. Làm sao tránh khỏi điều đó?"
								
								
								
								Điều cảm 
								động và đáng chú ý nữa trong kinh là sự ân cần, 
								tận tụy của một người thầy đối với đệ tử của 
								mình. Mặc dầu đức Phật đã già nua, đau ốm, Ngài 
								đã không quản mệt nhọc, khó khăn, đi trên một 
								quãng đường dài 450 km, trong 6 tháng trời, qua 
								15 địa phương lớn nhỏ, không ngừng thuyết giảng, 
								ngay cả khi Ngài cảm thấy trong người mệt mỏi 
								hay vừa thoát khỏi cơn trọng bệnh. Tới những 
								giây phút cuối cùng, khi bệnh tình đã trầm 
								trọng, Ngài còn cố gắng trả lời những câu hỏi 
								của Bà La Môn Subhadda, rồi thu nhận ông làm 
								người đệ tử cuối cùng, sẽ trở thành A La Hán 
								(phẩm 6). 
								
								
								Đặc biệt nhất là 
								Ngài đã tận dụng những giây phút cuối cùng để 
								giảng giải cho những người trong đại chúng tỳ 
								kheo còn đôi chút nghi vấn (phẩm 6): "Này các 
								tỳ kheo! Có thể có, ít ra một người, còn nghi 
								ngờ hay phân vân về Phật, Pháp, Tăng, đạo (magga) 
								hay phương pháp (patipada). Vậy các người hãy 
								đặt câu hỏi đi. Để sau này đừng có hối tiếc rằng: 
								'Đạo sư đứng trước mặt chúng ta, mà chúng ta đã 
								không hỏi thẳng được Ngài'." Chúng tỳ kheo 
								nghe xong giữ im lặng. Sau khi đức Phật nhắc lại 
								lần thứ hai, rồi lần thứ ba, chúng tỳ kheo vẫn 
								giữ im lặng, Ngài liền nói: "Có thể các người 
								không đặt câu hỏi vì kính trọng đạo sư. Trong 
								trường hợp đó, hãy nhờ một người bạn đồng tu đặt 
								lên câu hỏi". Chúng tỳ kheo vẫn giữ im lặng.
								
								
								
								Như vậy, 
								kinh cho ta thấy đức Phật trước hết là một vị 
								thầy, một đạo sư ân cần, tận tụy, thương yêu và 
								gần gũi đệ tử của mình. Ngài cũng đầy lòng nhân 
								ái, khi căn dặn Ananda phải làm cho người thợ 
								sắt Cunda tiêu tan hối hận, vì đã mời Thế Tôn ăn 
								nấm mộc nhĩ gây trọng bệnh, khiến cho Ngài 
								diệt độ (cuối phẩm 4). 
								
								
								 
								
								
								Về mặt giáo lý
								
								
								
								Kinh Đại Bát Niết 
								Bàn chứa đựng một cách vắn tắt và đầy đủ giáo lý 
								căn bản của đạo Phật, qua những bài thuyết giảng 
								của đức Phật Thích Ca cho các tỳ kheo đi cùng 
								với Ngài, hay nhân những buổi tụ họp các tỳ kheo 
								và cư sĩ địa phương. Kinh cũng là sự tập hợp của 
								nhiều đoạn kinh trong các bài kinh khác, chẳng 
								hạn như có những đoạn tương tự trong Tương Ưng 
								Bộ (Samyutta-nikaya) và Tăng Chi Bộ kinh (Anguttara-nikaya).
								
								
								
								Điều được đức 
								Phật nhiều lần nhắc tới là Giới (sila), Định (samadhi), 
								Huệ (pañña), ba cái học đưa tới vô lậu: "Đây 
								là Giới, đây là Định, đây là Huệ. Định sẽ đem 
								tới kết quả và ích lợi lớn nếu phát triển với 
								Giới, Huệ sẽ đem tới kết quả và ích lợi lớn nếu 
								phát triển với Định. Tâm phát triển với Huệ sẽ 
								giải thoát khỏi các lậu hoặc (asava), tức là dục 
								lậu (kamasava), hữu lậu (bhavasava), tri kiến 
								lậu (ditthasava) và vô minh lậu (avijjasava)"(chú 
								thích 7) 
								
								
								Ngài cũng nhắc 
								lại lý do vì sao con người mãi bị trói buộc 
								trong vòng luân hồi (sansara). Đó là vì không 
								hiểu rõ bốn sự thật là: khổ (dukkha), nguyên 
								nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường diệt khổ 
								(phẩm 2). 
								
								
								Và với tăng chúng 
								sống ở gần Vesali, Ngài còn nói về 37 phẩm trợ 
								đạo (bodhipakkhiya-dhamma)(chú thích 8), là 
								những pháp Ngài đã chứng ngộ và giảng dạy, và 
								khuyên họ phải học hỏi, thực hành, trau dồi và 
								phát triển (cuối phẩm 3). 
								
								
								Ngài đặc biệt 
								nhấn mạnh vào tầm quan trọng của 4 niệm xứ, khi 
								nói với Ananda (cuối phẩm 2): "Này 
								Ananda, hãy tự mình làm hòn đảo (dipa)(chú thích 
								9) cho mình, làm nơi nương tựa cho chính mình, 
								không nương tựa vào ai khác. Hãy lấy Chánh Pháp 
								làm hòn đảo cho mình, làm nơi nương tựa cho 
								chính mình, không nương tựa vào nơi nào khác. 
								Bằng cách nào một vị tỳ kheo làm được như vậy, 
								Ananda? Đối với thân, vị ấy quán thân, đối với 
								thọ, vị ấy quán thọ, đối với tâm, vị ấy quán 
								tâm, đối với pháp, vị ấy quán pháp, sống tinh 
								tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục được mọi 
								tham ái, sân si trên đời. Này Ananda, những ai 
								tự mình làm hòn đảo cho mình, lấy Chánh Pháp làm 
								hòn đảo cho mình, làm nơi nương tựa cho chính 
								mình, không nương tựa vào nơi nào khác, những vị 
								tỳ kheo tinh tấn ấy, ngay bây giờ và sau khi ta 
								diệt độ, sẽ là những vị tối thượng trong hàng tỳ 
								kheo của ta". 
								
								
								Trong một đoạn 
								nữa, chúng ta tưởng chừng như nghe lại lời 
								khuyên của đức Phật cho dân làng Kalama (phẩm 
								4): "Này các tỳ kheo, tỉ dụ như có một vị tỳ 
								kheo nói: 'Tôi nghe từ chính miệng Thế Tôn, học 
								hỏi được từ Thế Tôn, hay từ một tỳ kheo Thượng 
								tọa. Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy 
								của đạo sư', thì các người không nên chấp nhận, 
								cũng không nên bác bỏ ngay những lời đó, mà phải 
								học hỏi kỹ lưỡng, so sánh, đối chiếu với Kinh, 
								Luật. Nếu thấy phù hợp với Kinh, Luật thì hãy 
								đón nhận, nếu không thì hãy bác bỏ lời của vị tỳ 
								kheo đó". 
								
								
								Nhưng đặc điểm, 
								thông điệp quan trọng nhất về giáo lý trong Kinh 
								Đại Bát Niết Bàn, có lẽ là tính chất vô thường (aniccata) 
								của mọi pháp hữu vi. Tất cả những sự kiện xảy ra, 
								những điều được mô tả trong kinh đều chứa đựng 
								bàng bạc giáo lý vô thường đó: sự già yếu, bệnh 
								tật của đức Phật, và cuối cùng sự tịch diệt của 
								Ngài, cũng như tất cả những gì hiện hữu. 
								
								
								
								Chúng ta hãy nhớ 
								đến những lời nói cuối cùng của đức Phật: "Tất 
								cả những pháp hữu vi đều vô thường. Các người 
								hãy tinh tấn, đừng có xao lãng" (phẩm 2).
								
								
								
								Và cùng với khi 
								Ngài diệt độ, Thiên chủ Sakka thốt lên bài kệ:
								
								
								
								"Các hành là 
								vô thường,
								
								
								Có hiện phải có 
								hoại.
								
								
								Chúng tự sanh tự 
								diệt.
								
								
								An tịch là hạnh 
								phúc."
								
								
								 
								
								
								Giáo lý trong 
								Kinh Đại Bát Niết Bàn Đại Thừa 
								
								
								
								Những khác biệt 
								của hai bài kinh Nguyên Thủy và Đại Thừa chủ yếu 
								nằm trong giáo lý. Trong khi kinh Nguyên Thủy 
								trình bày giáo lý căn bản của đạo Phật, với " 
								Giới, Định, Huệ, 4 sự thật, 8 chánh đạo, 4 niệm 
								xứ" v.v., thì kinh Đại Thừa lại nhấn mạnh vào 
								khái niệm "Thường, Lạc, Ngã, Tịnh". 
								
								
								
								Trong kinh này, 
								đức Phật giải thích cặn kẽ về Chân Ngã hay Phật 
								Tánh hay Như Lai Tánh, là bản thể thanh tịnh 
								thường hằng bất biến của tất cả mọi chúng sinh, 
								vượt ra khỏi tư tưởng suy nghĩ thông thường, nhị 
								nguyên tương đối. Bản thể ấy luôn luôn tĩnh tịch 
								hiện tiền, tràn ngập khắp nơi, nhưng chúng sinh 
								bị trói buộc vì phiền não, tham sân si, ô nhiễm 
								che mờ nên không thấy được (phẩm Kim Cang Thân 
								thứ 5 và Phẩm Như Lai Tánh thứ 12). 
								
								
								
								Ngoài ra, đức 
								Phật còn dạy rằng tứ chúng Phật tử (gồm Tỳ Kheo, 
								Tỳ Kheo ni, nam Cư sĩ và nữ Cư sĩ) đều phải có 
								nhiệm vụ hộ trì chánh pháp, nghĩa là giữ gìn sao 
								cho chánh pháp khỏi bị mang tiếng oan vì những 
								người phá giới, khiến cho người đời mất niềm 
								tin, mất cơ hội thấm nhuần Phật pháp. Như vậy, 
								chữ Tăng ở câu kính Phật trọng Tăng phải hiểu 
								nghĩa là thanh tịnh Tăng (chú thích 10). 
								
								
								
								Về vấn đề đức 
								Thích Ca sơ sinh bước bẩy bước và nói "Thiên 
								thượng Thiên hạ duy Ngã độc tôn", Ngài cũng nói 
								rõ rằng Ngã đây chính là Như Lai, là Chân Tâm, 
								Phật Tánh, là thân Kim Cang bất hoại, chứ không 
								phải là Ngã của Thái Tử Tất Đạt Đa (phẩm Tứ 
								Tướng thứ 7).
								
								
								Cuối cùng, đức 
								Phật còn dặn rằng vì phương tiện tùy căn cơ 
								chúng sanh và tùy thời cơ, nên đôi khi Ngài phải 
								dạy một cách giản lược, không được rốt ráo, và 
								gọi những kinh này là kinh bất liễu nghĩa. Vậy 
								chúng sinh phải y chỉ kinh liễu nghĩa, nghĩa là 
								thấu hiểu mục tiêu tối hậu của kinh, tức là Phật 
								Tánh của chúng sinh, bằng trí huệ Bát Nhã (phẩm 
								Tứ Y thứ 8). 
								
								
								Như vậy, chúng ta 
								nhận thấy rằng tuy cùng dựa lên sự kiện chính là 
								sự diệt độ của đức Phật, nhưng giáo lý của kinh 
								Đại Bát Niết Bàn Đại Thừa gần với những kinh Đại 
								Thừa khác, như kinh Pháp Hoa, hơn là với giáo lý 
								của kinh Đại Bát Niết Bàn Nguyên Thủy. 
								
								
								
								 
								
								
								Về tổ chức tăng 
								đoàn 
								
								
								Trước khi đức 
								Phật viên tịch, sự lo lắng của tăng đoàn được 
								diễn tả bởi câu hỏi của Ananda khi thấy đức Phật 
								vừa qua khỏi cơn bệnh: "Đối với con, hướng đi 
								không sáng tỏ và tất cả đều đen tối. Nhưng dù 
								sao, con cũng tự an ủi rằng đức Thế Tôn sẽ không 
								nhập Niết Bàn trước khi cho chỉ thị cho đoàn thể 
								tăng già" (phẩm 2). 
								
								
								Đức Phật liền trả 
								lời: "Ananda, 
								ngươi còn chờ đợi gì ở ta nữa cho đoàn thể tăng 
								già? Trong khi dạy đạo Pháp, ta không hề phân 
								biệt những gì bí truyền và những gì không bí 
								truyền. Lời dạy của Như Lai không như bàn tay 
								nắm chặt của người thầy (acariya-mutthi)(chú 
								thích 11). Và Như Lai không bao giờ nghĩ: 'ta 
								điều khiển đoàn thể tăng già' hay 'đoàn thể tăng 
								già phụ thuộc vào ta'. Vậy thì, Ananda, có lý do 
								nào Như Lai cho chỉ thị cho đoàn thể tăng 
								già?" 
								
								
								Như vậy, rõ ràng 
								là đức Phật không có người tiếp nối để điều 
								khiển tăng đoàn, hoặc vì Ngài không muốn hoặc vì 
								không ai có khả năng giữ trọng trách này. Trong 
								các đại đệ tử của Ngài, người có trí tuệ và tài 
								năng tổ chức nhất là Sariputta (Xá Lợi Phất), 
								nhưng lớn tuổi hơn Ngài và đã diệt độ từ 6 tháng 
								trước. Người thứ hai là Moggallana (Mục Kiền 
								Liên) thì đã bị tử thương từ lâu. Chỉ còn 
								Mahā-Kassapa (Đại Ca Diếp) là người được tôn 
								trọng nhất, được chỉ định để dẫn đầu đại chúng 
								tỳ kheo tới đảnh lễ nhục thể Thế Tôn. Ông cũng 
								là người chủ trì Đại hội Kết tập lần thứ nhất 
								tại Rajagaha vài tháng sau đức Phật diệt độ (chú 
								thích 12). Sự cần thiết kết tập những lời Phật 
								dạy trở nên cấp bách khi những dấu hiệu chia rẽ 
								tăng đoàn bắt đầu xuất hiện. Ngay sau khi đức 
								Phật diệt độ, Subhadda, một tỳ kheo xuất gia khi 
								đã lớn tuổi, lớn tiếng tuyên bố: "Thôi, các 
								bằng hữu, đừng có sầu não, khóc than. Chúng ta 
								đã được hoàn toàn giải thoát khỏi vị đại Sa môn 
								này. Trước đây, chúng ta bị phiền hà bởi những ý 
								nghĩ như 'làm thế này là phải, làm thế này là 
								không phải',v.v. Bây giờ, chúng ta làm được 
								những gì ta muốn làm, không phải làm những gì ta 
								không muốn làm."(phẩm 6). 
								
								
								Trong những lời 
								căn dặn cuối cùng của đức Phật về tăng đoàn, có 
								hai câu đáng được chú ý: 
								
								
								1- "Sau 
								khi ta ra đi, Ananda, nếu Tăng đoàn muốn, có thể 
								bỏ được trong giới luật những điều nhỏ nhặt, 
								không đáng kể". Nhưng khi Mahā-Kassapa 
								và các đại đệ tử khác hỏi Ananda đó là những 
								điều nhỏ nhặt, không đáng kể nào, thì người thị 
								giả không biết trả lời ra sao, vì lý do lúc đó 
								đức Phật vô cùng mệt nhọc nên không tiện gặn hỏi. 
								Mahā-Kassapa và các đại đệ tử khác liền khiển 
								trách Ananda về việc đó, cũng như về việc đã 
								không năn nỉ đức Phật ở lại thế gian thêm một 
								thời gian nữa. Ananda cũng được coi như chưa dứt 
								khỏi mọi lậu hoặc, chưa đạt được thánh quả A La 
								Hán, nên phải trở về gấp rút tu học để có thể 
								tham dự Đại hội Kết tập cùng với 500 vị đệ tử A 
								La Hán khác. 
								
								
								2 - "Đến 
								tận bây giờ, các người gọi nhau bằng 'huynh đệ', 
								nhưng sau khi ta ra đi, không thể tiếp tục như 
								vậy nữa. Một tỳ kheo lớn tuổi phải gọi tỳ kheo 
								trẻ tuổi là 'huynh đệ' hay 'bằng hữu', nhưng một 
								tỳ kheo trẻ tuổi phải gọi tỳ kheo lớn tuổi là 
								'Đại Đức' hay 'Thượng Tọa'." Câu đó cho 
								ta biết rằng thời đức Phật còn tại thế, không có 
								phân chia cấp bậc trong tăng đoàn như sau này, 
								và sở dĩ có sự phân chia cấp bậc đó cũng là do 
								sự cần thiết của một tổ chức tăng đoàn vững chắc 
								với một sự phân chia cấp bậc rõ ràng. Rất có thể 
								là câu này đã được gán cho đức Phật bởi các soạn 
								giả của bài kinh.
								
								
								 
								
								
								Thái độ của đức 
								Phật đối với phụ nữ 
								
								
								Trong kinh, có 
								một đoạn trao đổi giữa Ananda và đức Phật, 
								thường được dùng để trình bầy thái độ của đạo 
								Phật đối với phụ nữ (phẩm 5): 
								
								
								- Bạch Thế Tôn, 
								chúng ta phải cư xử thế nào đối với phụ nữ?
								
								
								
								- Này Ananda, hãy 
								tránh nhìn theo họ. 
								
								
								- Nhưng Thế Tôn, 
								nếu chúng ta nhìn thấy họ, thì phải làm thế nào?
								
								
								
								- Này Ananda, hãy 
								tránh nói chuyện với họ. 
								
								
								- Bạch Thế Tôn, 
								nếu chúng ta phải nói chuyện với họ, thì phải 
								làm sao? 
								
								
								- Này Ananda, nếu 
								nói chuyện, thì phải đề phòng, cảnh giác.
								
								
								
								Điều lạ lùng là 
								vấn đề đặt ra không ăn nhằm gì với những câu 
								chuyện trước và sau (như về các thánh địa, cách 
								xử sự với nhục thể Như Lai), dường như đoạn này 
								đã được thêm vào một cách gượng gạo. 
								
								
								
								Có người 
								giải thích những lời khuyên trên của đức Phật, 
								bằng cách cho rằng chúng chỉ dành riêng cho 
								Ananda, một tăng sĩ đẹp trai, đa cảm, dễ thương, 
								được các tỳ kheo ni mến chuộng, và luôn luôn sẵn 
								sàng giúp đỡ các tăng đoàn ni. Có thể đức Phật 
								trả lời như vậy là để cảnh giác ông, khuyên ông 
								tránh xa phái nữ, để giữ gìn hạnh tu và khỏi 
								phạm vào sắc giới. 
								
								
								Nhưng xét kỹ ra, 
								giải thích này không ổn thỏa chút nào, bởi vì 
								lúc bấy giờ Ananda đã quá già (ông sanh cùng 
								ngày với đức Phật), cho nên về mặt sinh lý cũng 
								như về mặt tâm linh (ông đã gần đạt được thánh 
								quả A La Hán), làm sao ông còn có thể bị lôi 
								cuốn bởi sắc dục? 
								
								
								Đoạn trao đổi này 
								chắc hẳn là đã được "dàn xếp" bởi các soạn giả 
								của bài kinh, để nhắc nhở lại cho các tỳ kheo 
								những thế hệ sau phải tự đề phòng, cảnh giác 
								trước sự quyến rũ của phái nữ. 
								
								
								
								Thật ra, đức Phật 
								đối với phụ nữ có một tinh thần hoàn toàn bình 
								đẳng, không khinh khi, không kỳ thị, ngược lại 
								rất tôn trọng phụ nữ và xem họ như những người 
								có khả năng giác ngộ không khác gì nam nhi. Bằng 
								chứng là hai đoạn trong kinh: 
								
								
								1. Khi Ananda hỏi 
								đức Phật về hậu thế của một số tỳ kheo, tỳ kheo 
								ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ (phẩm 2), thì đức Phật 
								cho biết: "...Tỳ kheo ni Nanda đã diệt trừ 
								năm hạ phần kiết sử, và do đó đã hóa sanh và sẽ 
								nhập Niết Bàn, vì không còn phải trở lại đời này 
								nữa (anagami). Nam cư sĩ Sudatta đã diệt trừ ba 
								hạ phần kiết sử, và giảm thiểu tham, sân, si, 
								như vậy đã chứng quả Nhất Lai (sadakagami), chỉ 
								trở lại đời này một lần nữa và sẽ tận diệt được 
								khổ đau. Nữ cư sĩ Sujata đã diệt trừ ba kiết sử, 
								do đó đã chứng quả Dự Lưu (sotapatti), sẽ không 
								tái sinh vào ác đạo, và sẽ đạt được Chánh Giác. 
								Các cư sĩ Kakudha, Kalinga, Nikata, Katissabha, 
								Tuttha, Santuttha, Bhadda và Subhadda đã diệt 
								trừ năm hạ phần kiết sử, như vậy đã hóa sanh 
								không trở lại đời này nữa, và từ đó sẽ nhập Bát 
								Niết Bàn..."(chú thích 13). Như vậy, đứng về 
								mặt tu chứng không có một sự khác biệt gì giữa 
								nam và nữ, giữa tăng sĩ và cư sĩ, đó là một điều 
								quan trọng phải nhấn mạnh trong đạo Phật. 
								
								
								
								2. Khi dâm 
								nữ Ambapali (đúng hơn là một kỷ nữ [courtisane], 
								một người gái điếm hạng sang) (chú thích 14) mời 
								đức Phật cùng với một nhóm tỳ kheo tới dùng cơm 
								ngày hôm sau (phẩm 2), thì đức Phật không chấp 
								vào điều cô là một kỷ nữ và nhận lời mời của cô. 
								Ngay cả khi các hoàng tử Licchavin đích thân tới 
								mời Ngài dùng cơm cùng ngày đó, Ngài cũng từ 
								chối vì đã có lời nhận trước. Đối với Ngài, việc 
								cô Ambapali là một kỷ nữ không có gì quan trọng, 
								cái chính là cô là một người có thành tâm hướng 
								về Chánh Pháp. Câu chuyện này chứng tỏ tinh 
								thần bình đẳng, không chấp trước, coi trọng 
								người phụ nữ của đức Phật. 
								
								
								 
								
								
								Kết luận 
								
								
								
								Như chúng ta đã 
								thấy, Kinh Đại Bát Niết Bàn là một bài kinh rất 
								phong phú và đa dạng, bao gồm cả ba khía cạnh: 
								lịch sử, tình cảm và giáo lý. Kinh giúp chúng ta 
								học hỏi rất nhiều về những sự kiện lịch sử - xã 
								hội chung quanh sự diệt độ của đức Phật Thích 
								Ca, về những lời dạy cuối cùng của Ngài, cũng 
								như về sự chuyển biến nhanh chóng của đạo Phật, 
								từ một con đường tu học tới một tín ngưỡng dân 
								gian, rất sớm ngay sau khi đức Phật nhập Bát 
								Niết Bàn. 
								
								
								Trong kinh, có 
								những chi tiết giàu về tình cảm, rất "người", 
								đồng thời có những hiện tượng siêu nhiên, mầu 
								nhiệm, được thêm vào bởi các soạn giả đời sau, 
								để khơi dạy niềm tin hoặc mang tính chất biểu 
								tượng. 
								
								
								Thiết tưởng chúng 
								ta không nên để tâm vào những khía cạnh siêu 
								nhiên đó, mà chỉ nên ghi nhớ những bài học căn 
								bản, thực tiễn, có mặt trong suốt bài kinh, tức 
								là: tính chất vô thường của mọi hiện tượng, và 
								sự cần thiết chuyên cần tu học theo Giới, Định, 
								Huệ, là con đường giải thoát vạch ra bởi đức 
								Phật. 
								
								
								Kinh có thể được 
								tóm tắt bằng bài kệ Ngài nói, vào cuối phẩm 3:
								
								
								
								"Tuổi ta đã 
								già, 
								
								
								
								Cuộc sống nay chấm dứt. 
								
								
								
								Các người ở lại, ta sắp ra đi. 
								
								
								
								
								Sẵn sàng trú ẩn nơi mình. 
								
								
								
								Hỡi các tỳ kheo! 
								
								
								
								Hãy chánh niệm, tỉnh giác, 
								
								
								
								Trì giới, định tâm, nhiếp ý. 
								
								
								
								Ai tinh tấn trong Pháp và Luật này, 
								
								
								
								Sẽ lìa vòng 
								sanh tử, chấm dứt khổ đau".
								
								
								 
								
								
								
								Trịnh 
								Nguyên Phước 
								 
								
								
								
								
								
								 
								
								
								
								Chú thích:
								
								
								
								1) Trong kinh Pali có nói về 3 loại người đạt 
								được giác ngộ hoàn toàn (bodhi), là : Phật Chánh 
								Đẳng Chánh Giác (samma sambuddha, đạt được 
								sambodhi), Phật Độc Giác, hay Duyên Giác, hay 
								Bích Chi Phật (pacceka-buddha, đạt được 
								pacceka-bodhi) và A La Hán hay Thanh Văn (arahant, 
								đạt được savaka-bodhi). A La Hán hay Thanh Văn 
								là người đã nghe, hiểu, tu theo Chánh Pháp giảng 
								bởi đức Phật, và đã tự giải thoát khỏi mọi lậu 
								hoặc, kiết sử và đạt được giác ngộ. Phật Độc 
								Giác là người đã tự mình tìm ra con đường giải 
								thoát, tự mình đạt được giác ngộ, nhưng không 
								giảng dạy được cho thế gian con đường đó, không 
								có đệ tử, vì vậy cho nên gọi là Độc giác (éveillé 
								solitaire). Phật Chánh Đẳng Chánh Giác (éveillé 
								parfait) là người đã tự mình tìm ra con đường 
								giải thoát, giác ngộ, và có khả năng truyền bá 
								được con đường đó cho thế gian. Những vị Phật đó 
								trong ức kiếp mới có được một người. 
								
								
								
								
								2) Chữ " Nguyên thủy "(originel) trong đạo Phật 
								vẫn còn gây nhiều ngộ nhận. Để tránh chữ " Phật 
								giáo Tiểu thừa "(Hinayana), có tính chất chê bai, 
								người ta thường dùng chữ " Phật giáo Nguyên thủy 
								" để chỉ định ngành Theravada, là đạo Phật vẫn 
								thịnh hành tại các nước Đông Nam Á như Tích Lan, 
								Miến Điện, Thái Lan, miền Nam Việt Nam, v.v. 
								Thật ra, Theravada tiếng pali (Sthaviravada 
								tiếng sanskrit) có nghĩa là " trường phái của 
								những người lớn tuổi, trưởng lão "(Ecole des 
								Anciens), chỉ xuất hiện khi đạo Phật bắt đầu 
								phân chia ra làm hai bộ phái : Theravada (Trưởng 
								Lão Bộ) và Mahāsanghika (Đại Chúng Bộ), sau Đại 
								hội Kết tập lần thứ hai tại Vesali (xem bài " 
								Thử tìm hiểu về sự xuất hiện của Đại Thừa trong 
								lịch sử Phật giáo, Trịnh Nguyên Phước, http://cusi.free.fr/lsp/lsp0050.htm 
								"). Theravada còn phân chia ra thành nhiều 
								trường phái nữa, trước khi trở thành Theravada 
								cố định cho tới ngày hôm nay. Do đó, để tránh 
								mọi ngộ nhận, chúng ta nên gọi đạo Phật từ lúc 
								hình thành cho tới khoảng 2 thế kỷ sau là " đạo 
								Phật nguồn gốc " (originel) hoặc " đạo Phật cổ 
								xưa " hay " sơ khởi "(primitif), thay vì " đạo 
								Phật Nguyên thủy ", dành riêng cho Theravada 
								ngày hôm nay. 
								
								
								
								3) Hành trình cuộc đời đức Phật Thích Ca : sau 
								khi rời thành Kapilavatthu, Ngài đi qua xứ 
								Kosala (thủ đô là Savatthi) và tới xứ Maghada (thủ 
								đô trước là Rajagaha, sau là Pataliputta) tìm 
								thầy học đạo. Sau khi giác ngộ tại Bodh-gaya, và 
								chuyển pháp luân tại Sarnath, Ngài trở lại sống 
								tại Rajagaha trong những năm đầu tiên. Kế tiếp, 
								Ngài lấy Savatthi làm trung tâm hoạt động của 
								mình (do đó, Ngài được xem như người dân xứ 
								Kosala). Sau khi Ngài nhập Bát Niết Bàn, vai trò 
								trung tâm Phật giáo lại trở về với Rajagaha. Về 
								chuyến đi cuối cùng của đức Phật, nhìn kỹ bản đồ 
								chúng ta sẽ thấy ngay rằng Kusinara nằm trên con 
								đường hướng về Kapilavatthu (chỉ còn cách nhau 
								khoảng 200 km), khiến chúng ta không tránh khỏi 
								tự hỏi : phải chăng đức Phật đã muốn trở về viên 
								tịch tại quê hương của mình ? 
								
								
								
								4) Về thời điểm : mùa mưa tại Ấn Độ xẩy ra trong 
								những tháng 9, 10 và 11. Vào đầu bài kinh, chúng 
								ta được biết Ananda đứng sau đức Phật và quạt 
								cho Ngài, như vậy có nghĩa là đang vào mùa hè. 
								Ngài tới Vesali vào đầu mùa mưa, tức là khoảng 
								tháng 9. Như vậy, thì phải khởi hành từ Rajagaha 
								khoảng 2 - 3 tháng trước (tháng 6 - 7), vì con 
								đường tới Vesali khá xa. Khi Ngài diệt độ tại 
								Kusinara, hoa sala nở trái mùa, tức là vào mùa 
								đông, khoảng 3 tháng sau khi Ngài đã quyết định, 
								tức là tháng 12. Như vậy thì cuộc hành trình của 
								đức Phật có thể ước lượng kéo dài khoảng 5 - 6 
								tháng. 
								
								
								
								5) Thật ra, trong 45 năm đức Phật thuyết giảng, 
								không phải lúc nào Ngài cũng được đón tiếp nồng 
								hậu. Vì giáo lý của Ngài đi ngược lại với Bà La 
								Môn giáo, cho nên nhiều người Bà La Môn ghét bỏ 
								Ngài. Có hôm Ngài bị mắng chửi thậm tệ, có hôm 
								Ngài không nhận được thức ăn khi đi khất thực 
								tại một làng Bà La Môn, thậm chí có hôm dân 
								chúng trong làng lấp lại tất cả các giếng nước 
								để phản đối việc Ngài tới thuyết giảng. 
								
								
								
								
								6) Sau 4 trạng thái hay mức độ Thiền (jhana, 
								absorptions) trong sắc giới (rupavacara, sphère 
								des formes matérielles), thì tới 4 xứ(ayatana, 
								recueillements) trong vô sắc giới (arupavacara, 
								sphère des formes non matérielles), là : không 
								vô biên xứ (akasanancayatana, sphère des espaces 
								infinis), thức vô biên xứ (vinnanancaytana, 
								sphère de la conscience infinie), vô sở hữu xứ (akincannayatana, 
								sphère du néant), phi tưởng phi phi tưởng xứ (nevasanna-nassanayatana, 
								sphère sans perception ni non-perception). Có 
								nơi không phân chia ra như vậy, mà coi 4 xứ 
								trong vô sắc giới là sự chuyển tiếp sau mức độ 
								thứ 4 của Thiền. Tuy nhiên, jhana cũng như 
								ayatana, đều không phải những giai đoạn cốt yếu 
								để đạt được Niết Bàn. 
								
								
								
								7) Những điều cản trở trên con đường tu học gồm 
								có : 4 lậu hoặc(asava, écoulements mentaux 
								toxiques) là dục lậu (kamasava, désir), hữu lậu 
								(bhavasava, devenir), tri kiến lậu (ditthasava, 
								opinions) và vô minh lậu (avijjasava, ignorance) 
								; 5 triền cái (pañca nivarana, entraves) là tham 
								ái (kammachanda, convoitise sensuelle), sân hận 
								(vyapada, malveillance), hôn trầm (thinamiddha, 
								torpeur langueur), trạo cử (uddhaccakukkucca, 
								inquiétude agitation), nghi ngờ (vicikiccha, 
								doute) ; 10 kiết sử (kilesa, souillures mentales), 
								chia ra làm 5 hạ phần kiết sử (orambhagiya 
								samyojana, liens inférieurs) là tà kiến (sakkaya 
								ditthi, vue fausse de la personnalité), nghi ngờ 
								(vicikiccha, doute), giới cấm thủ (silabbata 
								paramasa, attachement aux préceptes), ái dục (kamaraga, 
								désir pour le plaisir des sens), ghét hận (patigha, 
								aversion), và 5 thượng phần kiết 
								sử(uddhambhagiya samyojana, liens supérieurs) là 
								sắc tham (rupa raga, désir d'existence des 
								formes subtiles), vô sắc tham (arupa raga, désir 
								d'existence sans forme), kiêu mạn (mana, orgueil), 
								trạo cử (uddhacca, inquiétude), vô minh (avijja, 
								ignorance). 
								
								
								
								8) 37 phẩm trợ đạo (bodhipakkhiya-dhamma), bao 
								gồm cả giáo pháp của đức Phật, là những yếu tố 
								đưa tới giác ngộ. Chúng được chia ra làm 7 nhóm 
								: 4 niệm xứ (cattaro satipatthana, bases de 
								l'attention) là quán thân (kaye kayanupassi, 
								observer le corps), quán thọ (vedanasu 
								vedananupassi, observer les sensations), quán 
								tâm (citte cittanupassi, observer la pensée), 
								quán pháp (dhamme dhammanupassi, observer les 
								objets mentaux) ; 4 chánh cần (sammappadhana, 
								efforts corrects) là tinh tấn không cho các pháp 
								bất thiện chưa sanh được khởi sanh (samvara), 
								tinh tấn đoạn diệt các pháp bất thiện đã sanh (pahana), 
								tinh tấn làm khởi sanh các pháp thiện chưa sanh 
								(bhavana), tinh tấn phát huy các pháp thiện đã 
								sanh (anurakkhana) ; 4 thần túc (iddhipada, 
								bases de puissance surnaturelle) là dục (chanda, 
								intention), tâm (citta, pensée), tinh tấn (viriya, 
								effort), trạch (vimansa, investigation) ; 5 lực 
								(pañca bala, forces) cũng là 5 căn(pañca indriya, 
								facultés), là tín (saddha, foi de confiance), 
								tinh tấn (viriya, effort), niệm (sati, 
								attention), định (samadhi, concentration), huệ (pañña, 
								sagesse profonde) ; 7 Bồ Đề phần (satta 
								bojjhanga, facteurs d'éveil) là niệm (sati, 
								attention), trạch pháp (dhamma-vicaya, analyse 
								des choses), tinh tấn (viriya, effort), hỉ (piti, 
								joie), khinh an (passaddhi, sérénité), định (samadhi, 
								concentration), xả (upekkha, équanimité) ; và 8 
								chánh đạo(ariya atthangika magga) là chánh kiến 
								(samma ditthi, vue correcte), chánh tư duy (samma 
								sankappa, pensée correcte), chánh ngữ (samma 
								vacca, parole correcte), chánh nghiệp (samma 
								kammanta, action correcte), chánh mạng (samma 
								ajiva, moyen d'existence correct), chánh niệm (samma 
								sati, attention correcte), chánh định (samma 
								samadhi,concentration correcte). Tuy nhiên, 
								chúng ta có thể nhận thấy rằng có một số phẩm 
								trợ đạo có mặt trong nhiều nhóm khác nhau, chẳng 
								hạn như " tinh tấn ", " niệm ", " định ", v.v., 
								cho nên tổng cộng lại ít hơn con số 37 nhiều.
								
								
								
								
								(9) Chữ dipa có nơi được dịch là " ngọn đèn ", 
								nhưng theo hai nhà Phật học Walpola Rahula và 
								Môhan Wijayaratna, thì dịch như vậy là sai, bởi 
								vì dipa có nghĩa là " hòn đảo ". Có lẽ đó không 
								phải là hải đảo trên biển cả, mà là cồn đảo giữa 
								dòng sông lớn, nơi mà người ta có thể ghé thuyền 
								bè vào để tránh cơn nước lũ. 
								
								
								
								(10) Chữ Tăng (sangha) thường được hiểu theo 
								nghĩa hạn hẹp của đoàn thể tăng già (bhikkhu 
								sangha). Thật ra, trong kinh điển Pali cổ xưa, 
								sangha bao gồm cả 4 thành phần (tứ chúng) : tỳ 
								kheo (bhikkhu), tỳ kheo ni (bhikkhuni), nam cư 
								sĩ hay ưu bà tắc (upasaka), và nữ cư sĩ hay ưu 
								bà di (upasika), và đồng nghĩa với ariya-sangha 
								(thường dịch là " thánh hiền tăng ") và 
								savaka-sangha (thanh văn tăng). Ariya thật ra 
								không có nghĩa là thánh (saint), mà là chân 
								chánh, đúng đắn, tối thượng (noble, sublime). 
								Savaka (thanh văn) không phải chỉ là những đệ tử 
								nghe đức Phật thuyết giảng (auditeurs), mà là 
								những người sống theo giáo pháp mà họ đã được 
								nghe và học hỏi. Chữ ariya-savaka cũng được dùng 
								để chỉ định tất cả các đệ tử của đức Phật, xuất 
								gia hay cư sĩ, nam hay nữ, đã đạt được một trong 
								4 giai đoạn giải thoát (xem chú thích 13).
								
								
								
								
								(11) Câu này rất quan trọng, bởi vì đã khẳng 
								định một cách rõ ràng rằng đức Phật đã giảng dạy 
								tất cả những gì có thể giảng dạy được, đã không 
								giấu diếm gì các đệ tử mình, không giữ lại một 
								điều bí truyền nào, để sau này có thể được phơi 
								bầy ra ánh sáng. Đó là thái độ của đạo Phật 
								Nguyên Thủy, ngược lại với đạo Phật Đại Thừa, 
								cho rằng vì có những giáo pháp quá cao siêu, khó 
								hiểu trong thời kỳ sơ khởi của đạo Phật, cho nên 
								đã được giữ kín hay chỉ được bí truyền cho một 
								vài đệ tử, để sau này được trình bầy cho quần 
								chúng nhiều thế kỷ sau. 
								
								
								
								(12) Trái với truyền thuyết " niêm hoa vi tiếu " 
								của Đại Thừa, làm cho Mahā-Kassapa (Đại Ca Diếp) 
								được tôn làm vị tổ Thiền tông đầu tiên, vị đại 
								đệ tử này thật ra là một người nghiêm nghị, khắc 
								khổ, được chúng tỳ kheo kính trọng. Trong vài 
								đoạn kinh Pali, đức Phật nói về ông như một 
								người ngang hàng với mình. Ông sanh ra trong một 
								gia đình Bà La Môn quí phái, và được giáo dục 
								theo truyền thống Veda. Ông bị gia đình ép buộc 
								lấy vợ, nhưng hai vợ chồng ở với nhau như anh em 
								trong 7 năm trời. Sau đó, cả hai đồng lòng quyết 
								định xuất gia theo một trường phái khổ hạnh, 
								trước khi qui y theo đức Phật. Lúc bấy giờ, 
								Ananda và Anuruddha, hai người em họ của đức 
								Phật, đều đã là đệ tử của Ngài. Theo kinh sách, 
								vì sống ở một vùng xa xôi, cho nên Mahā-Kassapa 
								không sống gần đức Phật trong những năm cuối đời 
								của Ngài. 
								
								
								
								(13) Theo kinh điển Pali, có 4 giai đoạn giải 
								thoát, mỗi giai đoạn phân chia ra làm 2 trạng 
								thái : đang trên đường đi (magga, đạo), và đã đi 
								tới nơi (phala, quả) : 1- Sotapatti (Dự Lưu, 
								celui qui est entré dans le courant). Muốn đạt 
								được giai đoạn này, phải diệt được 3 trên 5 hạ 
								phần kiết sử, tức là tà kiến, nghi ngờ và giới 
								cấm thủ. Người đạt được quả Dự Lưu sẽ không tái 
								sanh vào một hoàn cảnh xấu (ác đọa), và nếu tinh 
								tấn tu tập sẽ đi tới giai đoạn sau. 2 - 
								Sadakagami (Nhất Lai, celui qui ne reviendra 
								qu'une fois). Muốn đạt được giai đoạn này, phải 
								diệt trừ được một phần của 2 hạ phần kiết sử còn 
								lại, tức là ái dục và ghét hận. Người đạt được 
								quả Nhất Lai sẽ chỉ tái sanh một lấn nữa thôi, 
								và nếu tinh tấn tu tập sẽ đi tới giai đoạn sau. 
								3 - Anagami (Bất Lai, celui qui ne reviendra 
								plus). Muốn đạt được giai đoạn này, phải diệt 
								trừ hoàn toàn 5 hạ phần kiết sử (nhưng hãy còn 5 
								thượng phần kiết sử). Người đạt được quả Bất Lai 
								sẽ không còn phải tái sanh nữa, và nếu tinh tấn 
								tu tập sẽ đi tới giai đoạn cuối cùng. 4 - 
								Arahant (A La Hán). Muốn đạt được giai đoạn này, 
								phải diệt trừ tất cả các kiết sử, gồm cả 5 
								thượng phần kiết sử còn lại, là sắc tham, vô sắc 
								tham, kiêu mạn, trạo cử và vô minh. Như vậy tức 
								là đã giải thoát hoàn toàn khỏi các kiết sử, lậu 
								hoặc (A La Hán còn được gọi là khinasava, người 
								đã diệt trừ các lậu hoặc), như lời trong kinh 
								thường lặp lại : " Tái sanh đã tận. Phạm hạnh đã 
								thành. Những gì phải làm đã làm xong. Không còn 
								gì để thực hiện nữa ". 
								
								
								
								(14) Cô Ambapali trước kia là người đàn bà đẹp 
								nhất xứ Vajji, được nhiều hoàng tử say mê đến 
								nỗi gây chiến với nhau để tranh giành trái tim 
								cô. Sau đó, các nhà lãnh đạo xứ Vajji tìm ra 
								giải pháp là phong cô làm người kỷ nữ (courtisane) 
								chính, tiếp cận giới vương giả và thương gia. Cô 
								trở thành giầu có và sang trọng, và làm chủ 
								nhiều nhà cửa, đất đai, trong đó có một rừng 
								xoài lớn gần Vesali. Người con trai duy nhất của 
								cô sẽ trở thành một đệ tử xuất gia của đức Phật.
								
								
								
								
								Tài liệu tham khảo
								
								
								
								1) Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahāparinibbāna-Sūtra), 
								HT Thích Minh Châu dịch từ Pali sang Việt 
								
								
								
								
								
								http://cusi2.free.fr/dtk/truonbo/truong16.htm  
								hoặc  
								
								http://www.budsas.org/uni/u-kinh-truongbo/truong16.htm
								
								
								
								
								2) Kinh Đại Bát Niết Bàn, HT Thích Trí Tịnh dịch 
								từ Hán sang Việt 
								
								http://www.niemphat.com/kinhdien/kinhdaibatnietban/kinhdaibatnietban.html
								
								
								
								
								3) Kinh Đại Bát Niết Bàn, HT Thích Từ Thông 
								thuyết giảng (11 CD) 
								
								http://www.lotuspro.net/MP3/KinhDaiBatNietBan.htm
								
								
								
								
								4) Môhan Wijayaratna, Le dernier voyage du 
								Bouddha 
								Editions Lis, Paris, 1998 
								
								
								
								5) Edward Conze, Le bouddhisme dans son essence 
								et son développement 
								Editions Payot, Paris 1951 - 1995 
								
								
								
								
								6) Peter Harvey, Le bouddhisme - Enseignements, 
								histoire, pratique  
								Editions du Seuil, Paris 1993 
								 
								
								
								