Đời sống quốc gia dân tộc với        hoàn cảnh địa lý
 và sự ảnh hưởng khí hậu, thiên nhiên, đã tạo dựng        cho Ấn Độ có 
một lịch sử khác với các quốc gia trên thế giới. Đó        là sự cố đặc 
biệt của xứ Ấn Độ xưa và nay, nơi có những rừng        núi thâm u, tục 
gọi là Lục địa xanh (Pays blues), đã ảnh hưởng nhiều        tới luồng tư
 tưởng nhân bản, tiến bộ và giải thoát sớm được xuất        hiện. Thật 
vậy, bất cứ tôn giáo, học thuyết, chủ nghĩa nào, khi sinh        khởi, 
đều là phản ảnh (không nhiều thì ít) của hoàn cảnh, khí hậu,        địa 
dư, xã hội, chủng tộc mà tạo dựng nên cả. Nếu xét nó ngoài        hoàn 
cảnh thực tại, lẽ dĩ nhiên không thể thấu hiểu nổi. Văn hóa đạo        
Phật cũng do nhân duyên hội ngộ như thế mà nảy mầm và thúc đẩy tiến     
   hóa...
Phật giáo có một lịch sử trên        hai ngàn năm, 
Đông-Tây truyền bá, gieo rắc ảnh hưởng khắp cả các châu        lục. 
Trong quá trình truyền bá ấy, qua mỗi thời đại, Phật giáo lại        tùy
 theo tình trạng xã hội của mỗi phương sở mà có ít nhiều biến        
thiên về bản sắc. Vì thế, muốn nói đến điểm xuất phát của đạo        
Phật, không thể không đi sâu vào bối cảnh lịch sử của đất nước        Ấn
 Độ đương thời. Đây là một đề tài rất rộng lớn, mà khi đi vào,        ta
 phải trải qua những bước tìm hiểu như về nền chính trị, xã hội        
Ấn Độ trước khi Đức Phật ra đời; tư tưởng tôn giáo và triết học        
trước thời kỳ Đức Thế Tôn xuất thế v.v... Từ đây, ta càng thấy rõ       
 hơn tầm quan trọng và ý nghĩa thiêng liêng cao quý trong sự Đản sanh 
của        Đức Mâu Ni.
Nhưng chương trình học hàm thụ hẳn        có ý nghĩa 
sắp xếp để đề tài to lớn này được trình bày trong một        dịp thuận 
lợi hơn về cả không gian lẫn thời gian. Vì lý do đó, xin        được 
thông qua phần bối cảnh lịch sử chi tiết; chỉ nêu lên ở đây        vài 
đoạn đóng vai trò chuyển tiếp và đi thẳng vào lược sử của Đức        
Thích Ca Mâu Ni, một bậc thầy vĩ đại muôn thuở của nhân loại.
Trước thời Đức Thế Tôn ra đời,        về tư tưởng tôn
 giáo, triết học cũng như về mặt chính trị, kinh tế        và xã hội 
thật vô cùng phức tạp. Với pháp điển Manoa (Mànu) hỗn hợp        cả 
chính trị lẫn tôn giáo đã ấn định nhiều sinh hoạt đầy bất công        
trong xã hội và góp phần đưa hai giai cấp thống trị Brahmana (tăng lữ Bà
        La Môn) cùng Ksatriya (Sát Đế Lỵ - vua quan) lên ngồi vững chắc 
trên hai        giai cấp thuộc hàng tiện dân, bị xã hội khinh miệt, 
không được luật        pháp bảo hộ, không được dự chung phần tín ngưỡng 
và tán tụng kinh        điển Veda (Phệ Đà), đó là hai giai cấp Vaisya 
(Phệ Xá) và tệ hơn nữa        là Sùdra (Thủ Đà La).
Tư tưởng Ấn Độ thời bấy giờ        gần giống như tư 
tưởng đời Chiến Quốc ở Trung Hoa xưa. Xét về mặt        xã hội thì trước
 Đức Phật giáng sinh gần 100 năm, trước Tây lịch độ        7 thế kỷ, đạo
 Bà La Môn thịnh hành đến cực điểm. Nhưng cũng do sự        độc quyền 
của tăng lữ mà đạo đức tôn giáo thời đó chỉ có nghi thức        phô 
trương bề ngoài. Do chế độ giai cấp nên cuộc sống xã hội không        
công bằng, nhân dân không được tự do, mà tư tưởng yếm thế nảy sinh,     
   nạn mê tín hoành hành trong xã hội. Số đông tu theo pháp môn khổ hạnh
 với        quan niệm cho rằng gần sự khổ mới quen với cái khổ, và sẽ 
xem thường        và không còn thấy khổ. Có người lại tin tu khổ hạnh sẽ
 được sanh lên        cõi trời hưởng các điều vui. Ở một phương diện 
khác, xã hội đã        phát sinh tư tưởng hoài nghi, phủ nhận tất cả 
những giá trị tôn giáo,        nhân quả và đạo đức. Nương theo quan niệm
 ấy, họ cổ xúy tư tưởng        phản kháng. Ngoài những giáo phái thuận 
theo hệ thống Veda, các chủ nghĩa        khác như: Khoái lạc, Ngụy biện,
 Khổ hạnh, Hoài nghi... tiếp tục nổi        lên.
Giáo lý Veda (Phệ Đà) diễn biến        trong ba giai 
đoạn, thường được gọi là ba thời đại: Phệ Đà Thiên Thư        (Veda 
2500-1000 BC), Phạm Thư (Brahmana 1000-800 BC), Áo Nghĩa Thư (Upanishad 
       800-600 BC), đó là tạm lược chia tình trạng biến đổi về tư tưởng 
tôn        giáo của dân tộc Ấn Độ từ đa thần giáo sang nhất thần, và từ 
nhất        thần sang lãnh vực triết học theo ba giai đoạn trên. Song 
song với diễn        biến của 3 tư trào này, đã có những phái chịu ảnh 
hưởng của hệ thống        Veda, căn cứ vào đó mở mang thêm cho giáo lý 
của mình có hệ thống hơn.        Cũng có nhiều học giả thoát ly ra ngoài
 tư tưởng Veda, chủ trương tự        do khảo cứu rồi thành lập phái 
triết học tự nhiên. Các phong trào tư        tưởng đó, hoặc dung hòa 
hoặc xung đột lẫn nhau, làm cho nền học thuyết        của Ấn Độ lâm vào 
một tình trạng rất rối ren. Tuy nhiên, nếu kiểm        điểm lại, ta có 
thể chia các tư trào lúc bấy giờ thành hai hệ thống:        hệ thống 
Veda và hệ thống phản Veda. Hệ thống trước tuy nhiều, nhưng        đáng 
kể chỉ có lục đại học phái. Hệ thống phản lại thì có lục sư        ngoại
 đạo.
Sống dưới một xã hội có thể        chế giai cấp đầy 
bất công; tư tưởng tôn giáo lại rối ren như thế,        con người không 
còn biết tin tưởng, bám víu vào đâu. Giữa hoàn cảnh bế        tắc ấy, 
Đức Phật xuất hiện như một mặt trời sáng ấm buổi ban mai,        làm tan
 đi bóng tối của đêm đen dày đặc đã từ lâu che phủ cuộc đời.        Ngài
 không chỉ là cứu tinh cho xứ Ấn Độ thời bấy giờ, mà còn là người       
 vạch ra hướng đi mới của nhân loại. Đức Phật là người đầu tiên xướng   
     lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết  
      mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài       
 thánh ca trác tuyệt, là một sự biểu hiện của biển lớn Trí tuệ và Từ    
    bi, là ánh sáng, là con thuyền, là niềm tin cho mọi người, mọi xã 
hội,        dù ở bất cứ thời gian và không gian nào.
Dù không phải là người Phật tử,        cũng cần tìm 
hiểu ý nghĩa thâm thúy đời sống của bậc Thánh cao cả        ấy để rọi 
soi vào cuộc sống của chính mỗi con người. Và ở đây,        chúng ta tìm
 hiểu về những nét chính về cuộc đời của Đức Mâu Ni.
- B/- Nội dung
- I- Niên đại và thân            thế
Đức Phật giáng sinh vào ngày 15        tháng 4 năm 
623 BC tại vườn Lumbini (Lâm Tỳ Ni), cách thành Kapilavastu (Ca Tỳ      
  La Vệ) khoảng 15 cây số, nay là xứ Ruminidhehi, thuộc quản hạt Aouth, 
       phía Tây Nam xứ Népal và phía Đông Rapti. Song thân Ngài là Quốc 
vương        Suddhodana (Tịnh Phạn) và Hoàng hậu Màyà (Ma Da). Thuộc 
dòng dõi Sakya        (Thích Ca), Vua Suddhodana trị vì một vương quốc 
nằm ở ven sườn dãy núi        cao ngất trời - Himalaya (Hy Mã Lạp Sơn) -
 nằm phía Đông-Bắc Ấn Độ, thủ        phủ là Kapilavastu, nay là Népal. 
Địa điểm thủ phủ này nay được nhận        ra là Bhulya trong quận Basti,
 cách Bengal 3 cây số nằm vào hướng Tây-Bắc        nhà ga xe lửa Babuan.
Một hôm, trong thành Kapilavastu có lễ        hội 
Tinh Tú, vua tôi cùng nhau cúng bái. Hoàng hậu Màyà sau khi dâng hương  
      hoa trong nội điện và ra khỏi ngọ môn bố thí thức ăn, đồ mặc cho 
dân        chúng, bà trở về cung an giấc, mộng thấy một tượng vương 
trắng 6 ngà        từ trên hư không xuống, lấy ngà khai hông bên hữu mà 
chui vào. Các bốc        sư đều cho rằng Hoàng hậu sẽ hạ sanh một quý tử
 tài đức song toàn.        Nghe điều này, Vua Suddhodana rất vui mừng, 
vì từ nay ngôi báu đã có người        truyền nối.
Đến thời khai hoa nở nhụy, theo tục        lệ thời 
bấy giờ, Hoàng hậu phải trở về quê cha là trưởng giả        Anjana ở 
nước Koly (Câu Ly) để an dưỡng, chờ ngày lâm bồn. Trên quãng        
đường đi, Hoàng hậu Màyà vào vườn Lumbini thưởng ngoạn mùa hoa đang     
   đua nở. Bên tàng cây asoka (vô ưu) che rợp mát, sắc màu tươi sáng, 
hương        thoảng nhẹ bay, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Tin lành Thái
 tử chào đời        nhanh chóng được loan truyền trong dân chúng. Tất cả
 thần dân trong vương        quốc đều vui mừng không xiết kể.
Ngày Đản sanh Thái tử, khắp        Kapilavastu cảnh 
vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ, cây cối        xanh tươi, sông
 ngòi mương giếng trong đầy, chim chóc reo vang, hào quang tỏa        
khắp. Đó là ngày hội của toàn vương quốc. Dân chúng khắp nơi tổ chức    
    ăn mừng và kéo về kinh đô Kapilavastu để vui với hoàng gia. Lẫn 
trong đám        đông, có nhiều đạo sĩ tu hành trên núi cao, cũng đi về 
dự lễ và xem tướng        cho Thái tử. Đạo sĩ già tên Asita (A Tư Đà) 
(1), ẩn tu trên Himalaya - người        được kính nể nhất vì đạo hạnh - 
đã chào Thái tử với thái độ rất        mực cung kính, rồi cười và lại 
khóc. Được hỏi, đạo sĩ trả lời:        ông cười mừng là vì Thái tử có 32
 tướng tốt, nhất định tương lai sẽ        tu chứng Phật quả, và với lòng
 từ thương xót chúng sanh mà truyền bá        chánh pháp trên thế gian 
này.
"... Thái tử này sẽ chứng
 Tối thượng quả Bồ đề
 Sẽ chuyển bánh xe pháp
 Thấy thanh tịnh tối thắng
 Vì lòng từ thương xót
 Vì hạnh phúc nhiều người
 Và đời sống phạm hạnh
 Được truyền bá rộng rãi..."
(Sutta-Nipata, Kinh tập, 101)
Và ông khóc là vì tuổi đã quá        cao, không còn 
sống được bao lâu nữa để trực tiếp được giáo hóa bởi        Đức Thế Tôn 
tương lai này.
"... Thọ mạng ta ở đờ
 Còn lại không bao nhiêu
 Đến giữa đời sống Ngài
 Ta sẽ bị mệnh chung
 Ta không được nghe pháp
 Bậc tinh cần vô tỉ
 Do vậy ta sầu não
 Bất hạnh và khổ đau" (Kinh tập, 103)
Lời tiên đoán làm Vua Suddhodana lặng        lẽ không
 vui. Trong lễ đặt tên, vua đặt tên con là Siddhattha (Sĩ Đạt        
Đa-Tất Đạt Đa), họ là Gotama (Cồ Đàm), với hàm ý là kẻ phải giữ        
chức vụ mà mình phảãi giữ; còn có nghĩa là người được toại nguyện,      
  mọi việc đều thành tựu. Ý nhà vua là muốn gởi gắm tất cả vương        
quyền của mình vào đứa con yêu quý này.
Hoàng hậu Màyà qua đời sau 7 ngày        hạ sanh Thái
 tử; vì thế, sự nuôi dưỡng đều được chăm sóc trực tiếp        bởi dì 
Maha Pajàpati (Ma Ha Ba Xà Ba Đề), em ruột của Hoàng hậu Màyà.
II- Đời        sống của Thái tử trước khi xuất gia
1)- Đời sống và giáo dục của        Thái tử: Thái tử 
Siddhattha được nuôi nấng và dạy dỗ một cách toàn        diện cả hai 
lãnh vực văn chương và võ thuật; những thầy giáo giỏi nhất        trong 
nước được mời đến hoàng cung để dạy cho Thái tử các môn học        đương
 đại như Thanh minh (ngôn ngữ, văn học), Công xảo minh (công kỹ        
nghệ học), Y phương minh (y học), Nhân minh (luận lý học) và Nội minh 
(đạo        học); lúc ấy, Ngài vừa tròn 7 tuổi. Về đạo học, Thái tử đã 
được        học 4 thánh điển Veda. Kinh ghi lại rằng, chỉ trong khoảng 
thời gian từ        7 đến 12 tuổi, Thái tử đã học thông thạo 5 môn học 
trên. Với một tư        chất đặc biệt, Thái tử đã làm cho hai danh sư 
nổi tiếng về võ là        Ksantidiva (Sằn Đề Đề Bà) và về văn là 
Visvàmistra (Tỳ Sa Mật Đa La)        phải cúi đầu thán phục. Ngoài sự 
thông minh dĩnh ngộ, Thái tử được        mọi người quý kính về đức hạnh 
bao la của Ngài.
Trong một buổi lễ Hạ điền, giữa        lúc mọi người 
mải mê xem lễ hội, Thái tử lúc ấy tuy còn nhỏ, đã lặng        lẽ đến bên
 cội cây gioi (rose-apple) xếp bằng tĩnh tọa. Thấy con với dáng        
dấp trầm tư, tĩnh lặng, Vua Suddhodana đã phải kinh ngạc thốt lên:      
  "Ôi, con thân yêu! Đây là lần thứ hai, cha nghiêng mình trước        
con!" (lần trước, khi thấy đạo sĩ Asita cúi đầu trước Thái tử,        
vua bất giác cũng nghiêng mình theo).
Càng yêu thương quý trọng con, Vua        Suddhodana 
lại càng lo sợ Thái tử sẽ không nối nghiệp ngai vàng, mà sẽ        xuất 
gia tìm đạo như lời tiên đoán của đạo sĩ Asita. Càng lớn lên,        
Thái tử càng lộ vẻ trầm tư về cuộc sống. Bởi thế, vua cùng triều        
thần sắp đặt nhiều kế hoạch để giữ Thái tử ở lại với ngai        vàng. 
Vua Suddhodana đã cho xây 3 cung điện nguy nga, tráng lệ cho Thái tử    
    thay đổi nơi ở hợp với thời tiết quanh năm của Ấn Độ. Hàng trăm     
   cung phi mỹ nữ giỏi đàn ca hát múa được tuyển chọn để túc trực hầu   
     hạ Thái tử. Đức Phật đã đề cập đến quãng đời này trong kinh Tăng   
     Chi I như sau: "... Này các Tỳ kheo, ta được nuôi dưỡng tế nhị, quá
        mức tế nhị; các hồ nước được xây lên, một hồ trồng hoa sen xanh,
 một        hồ sen đỏ và một hồ sen trắng... Đêm và ngày, lọng trắng 
được che        trên đầu ta, để tránh xúc chạm lạnh, nóng, bụi, cỏ, 
sương. Này các Tỳ        kheo, 3 lâu đài được xây dựng cho ta, một cái 
cho mùa Đông, một cái cho        mùa Hạ và một cái cho mùa mưa... Các vũ
 công đàn hát múa xung quanh        ta...". Nhưng những hạnh phúc trần 
gian không làm khuây khỏa được        ưu tư của người có ý chí xuất 
trần.
Muốn ngăn chặn tất cả những hình        ảnh của cuộc 
sống trầm thống khổ đau mà kiếp người phải đeo mang        không lọt vào
 mắt, vào tai Thái tử, để đứa con yêu không có thời gian        mà nghĩ 
đến ngày xích lại với quyết định xuất gia; khi Thái tử vừa        tròn 
16 tuổi, Vua Suddhodana vội tiến hành lễ thành hôn cho Thái tử với      
  Công chúa một nước láng giềng - Yosodhara (Da Du Đà Là) - con Vua 
Suppabuddha        (Thiện Giác), một trang quốc sắc thiên hương, với hy 
vọng hương ấm tình        yêu thương đôi lứa sẽ buộc chặt đôi chân của 
Thái tử ở lại với        ngai vàng.
2)- Tiếp xúc khổ đau nhân thế: Nhưng        được một 
thời gian, do năng khiếu suy tư sâu sắc và lòng thương người        vô 
hạn vô biên, Thái tử lại rơi vào tình trạng trầm tư lo lắng, luôn       
 cảm thấy lòng mình nặng trĩu bao nỗi băn khoăn thắc mắc. Được phép     
   vua cha, Thái tử lần đầu tiên được ra khỏi cung vàng điện ngọc và 
tiếp        xúc với thế giới bên ngoài. Trong phạm vi giới hạn của cấm 
thành,        Ngài chỉ được thấy những gì tươi đẹp của đời sống; và phần
 còn        lại, phần nhiều hơn, phần tương phản với những gì Ngài hiểu 
biết,        giờ đây nó đang sờ sờ trước đôi mắt ngỡ ngàng và xót xa của
 Thái        tử Siddhattha.
Lần lượt ra bốn cửa thành của        hoàng cung, Ngài
 chứng kiến những sự thật đen tối và đáng sợ! Một cụ        già chân 
mỏi, gối dùn; một người bệnh hoạn quằn quại; một thây ma        hôi thối
 và một đạo sĩ ly dục nghiêm trang, tất cả đã làm cho tâm tư        Thái
 tử dao động đến cực độ. Ngài càng nhận chân rằng tất cả những        
lạc thú, hạnh phúc mà mình đang thọ hưởng đều mang tính giả tạm vô      
  thường. Cộng với lần tiếp chuyện cùng vị đạo sĩ ung dung, mà thoáng   
     hiện đằng sau con người này một con đường giải thoát, Thái tử      
  Siddhattha quyết định thoát khỏi ngục vàng, tìm ra một lối thoát, một 
       cuộc sống chân thật có ý nghĩa và cao đẹp hơn; một con đường dẫn 
tới        giác ngộ, vĩnh viễn khắc phục mọi nỗi khổ đau và bất hạnh của
 đời        người và hướng đến an lạc.
Giữa lúc ấy, một tin đưa đến        khiến Ngài không 
vui: Công chúa Yosodhara vừa hạ sanh một hoàng nam. Thái tử        đã 
thốt lên rằng: "Một trở ngại (ràhu) đã được sanh, một ràng        buộc 
đã xảy ra". Nhân câu nói này mà Quốc vương Suddhodana đã đặt        tên 
cháu là Ràhula (La Hầu La).
III/- Sự        từ bỏ vĩ đại
Và rồi, với cõi lòng nặng trĩu vì        thương chúng
 sanh chìm đắm trong bể khổ; một đêm, sau khi đến trước        phòng 
nhìn lần chót người vợ và hài nhi yêu dấu đang say nồng trong giấc      
  ngủ, Ngài cùng nô bộc Channa (Xa Nặc) (2) dắt con tuấn mã Kantaka 
(Kiền Trắc)        (3) vượt thành ra đi.
Ánh sao khuya dẫn lối đưa đường,        làn gió lạnh 
đẩy lùi tất cả lại sau lưng. Tình yêu thương phụ hoàng,        di mẫu, 
vợ đẹp, con ngoan rất nồng nàn, nhưng trong Thái tử, lòng xót thương    
    nhân loại đang chịu mọi nỗi bất hạnh lại còn da diết vượt trội      
  hơn nhiều.
Ra đi, Ngài từ bỏ tất cả những        người thân yêu,
 ngôi báu, vương quyền, cả cuộc sống nhung lụa tràn đầy        hạnh 
phúc. Đây không phải là sự hy sinh từ bỏ của một người già, người       
 đau ốm, người nghèo, người tật bệnh, người bất đắc chí, người ngán     
   ngẩm cuộc đời, người mang căm hờn oán giận... mà là sự hy sinh từ bỏ 
       của một hoàng tử đang tuổi thanh xuân, đang sống trong quyền quý 
giàu        sang, chứa chan hạnh phúc. Quả đó là một sự từ bỏ hy sinh vĩ
 đại, có        một không hai trong lịch sử loài người. Một sự ra đi 
không tiền khoáng        hậu. Năm ấy, Thái tử vừa tròn 19 tuổi (theo Nam
 truyền Phật giáo, Thái        tử xuất gia năm 29 tuổi).
IV/- Quãng        đường tu hành - tầm đạo
Khi tới bên kia bờ sông Anoma, Thái        tử dưâng 
lại, cạo bỏ râu tóc, trao y phục và đồ trang sức cho Channa;        và 
bảo người nô bộc trung thành ra về tạ lỗi cùng phụ hoàng. Còn lại       
 một mình, Thái tử ra đi với bộ áo màu vàng giản dị của người tu        
sĩ, sống cuộc sống không nhà của người xuất gia, ly dục ly trần, không  
      nơi cố định.
Một cây cao bóng mát hoặc một        hang đá vắng vẻ,
 một cánh rừng u tịch, một làng mạc đìu hiu đều có        thể là nơi che
 mưa đỡ nắng, nghỉ qua đêm của Ngài. Đi trong nắng cháy,        đi trong
 sương gió lạnh lùng, xiêm y từ tốn chỉ là những mảnh vụn        ráp 
lại, tài sản duy nhất chỉ là một bình bát để khất thực độ nhật;        
Thái tử Siddhattha dành hết thời gian cho sự tầm cầu thiền định hầu tìm 
       ra sự thật tối hậu.
Lúc bấy giờ, có nhiều trí thức        lỗi lạc xuất 
gia trở thành những đạo sư tâm linh danh tiếng, quy phục        được 
nhiều đồ đệ. Thái tử Siddhattha trên đường đi tầm đạo cũng        đã tới
 thụ giáo với hai vị đạo sư được tôn kính nhất thời ấy        là A- 
la-ra Ka-la-ma và Uất Đầu Lam Phất, và chỉ trong một thời gian ngắn,    
    ngộ Vô sở hữu xứ định mà Alara Kalama đã chứng và đạt định Phi phi  
      tưởng xứ mà Uddaka Ràmaputta đã đạt. Biết rằng đây vẫn còn trong  
      vòng sanh tử, Ngài lại ra đi, bỏ lại sau lưng lời yêu cầu ở lại 
cùng        giáo hóa đồ đệ của hai vị đạo sĩ danh tiếng trên. Và thế là 
không        còn ai để Ngài theo học đạo nữa.
V/- Sáu        năm khổ hạnh
Thời ấy, Ấn Độ còn có truyền        thống và niềm tin
 rằng, người nào cầu đạo giải thoát đều phải nỗ        lực và kiên trì 
tu khổ hạnh; Thái tử liền đi đến Uruvela, một thị trấn        của Senàni
 và cùng với năm anh em ông Kodanna (Kiều Trần Như) (4) , Bhadhya       
 (Bạt Đề) , Vappa (Đề Bà) , Mahanama (Ma Ha Nam) và Asaji (Ác Bệ) , bắt 
đầu        một cuộc tu khổ hạnh kéo dài đến 6 năm và dẫn đến kết quả là 
       thân thể Ngài gầy đi như một bộ xương khô, đôi mắt sâu hoắm, 
không        còn đi đứng được nữa.
Ngài đã trải qua những cảm giác        nhức nhối, đau
 đớn tột cùng của thân thể, và Ngài đã kể lại trong        kinh 
Majjihima Nikàya (Trung Bộ kinh) với những hình ảnh thật đáng sợ:       
 Ngài như bị ai khoan vào sọ với lưỡi khoan thật bén; như bị một lực    
    sĩ dùng dây siết chặt đầu; bị tên đồ tể dùng dao rạch bụng; như bị  
      nắm và quăng lên giàn hỏa thiêu sống. Nhưng những cảm giác đau đớn
        ấy không hề ảnh hưởng và làm tổn thương đến tâm thức của Ngài.
Ở đây, qua thực nghiệm, Ngài thấy        rằng chân lý
 tối hậu giải thoát an lạc, diệt trừ khổ đau không thể        cầu được ở
 bên ngoài, ở bất kỳ một bậc đạo sư nào, cũng không        phải qua pháp
 môn hành xác; mà sự chứng ngộ ấy cần phải được thể        hiện ở chính 
trong nội tâm của mỗi người và không thể dựa vào một        tha lực nào 
khác.
Ngài lấy lại sức nhờ uống bát        sữa do một thôn 
nữ tên là Sujata (Su Dà Ta) dâng cúng, sau đó xuống tắm        ở dòng 
sông Neranjara (Ni Liên Thuyền). Năm người bạn đồng tu cho rằng        
Ngài đã thối chí, quay về cuộc sống dục lạc tiện nghi, họ bèn rời bỏ    
    Ngài và đi đến Isipatana gần thành phố Benares (Ba La Nại).
VI/-        Thành đạo
Còn lại một mình, Ngài đến ngồi        dưới gốc cây 
pippala (tất bát la, sau này gọi là cây bodhi - bồ đề); và        với 
tâm định tĩnh, chánh niệm, tỉnh giác, ly dục, đi vào sơ thiền (thời     
   niên thiếu, trong buổi lễ Hạ điền, Ngài cũng đã một lần vào thiền    
    này), nhị thiền, tam thiền và lần lượt nhập lên tứ thiền, sau đó 
hướng        tâm đến tam minh.
Với trực giác, Ngài thấy rõ        nguyên nhân của 
khổ đau. Chính sự tập khởi của 12 nhân duyên là tập        khởi của toàn
 bộ khổ uẩn. Ở canh một, Ngài chứng Túc mệnh minh, thấy        rõ vô 
lượng kiếp quá khứ của mình. Sang canh hai, Ngài chứng Thiên nhãn       
 minh, thấy rõ vô lượng kiếp quá khứ của chúng sanh với các nghiệp      
  nhân và nghiệp quả, thấy rõ con đường thọ nghiệp của chúng sanh. Qua  
      canh ba, Ngài như thật quán chiếu thấy khổ đau, nguyên nhân của 
khổ        đau, sự đoạn tận của khổ đau, và con đường đưa đến đoạn tận 
khổ        đau, và đã chứng Lậu tận minh. Sau cùng, Ngài chứng đắc quả 
vị Vô thượng        Chánh đẳng Chánh giác, là vị Phật đầu tiên trong 
hiện kiếp, lúc ấy        sao Mai vừa mọc; và danh hiệu Đức Phật Gotama, 
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni        được thế gian tôn xưng từ đấy.
C/- Kết        luận
Nhìn qua lịch sử xưa nay, những        anh hùng cái 
thế lập nhiều chiến công hiển hách trên những đấu trường,        thắng 
ngàn quân, trăm trận nhiều vô số kể, nhưng thử hỏi có ai thắng        
được dục vọng của chính mình ? Thắng người đã là một việc khó, thắng    
    được chính mình lại là một việc làm khó hơn. Đức Phật đã thắng cả   
     ngoại ma lẫn nội ma, vượt qua tất cả dục vọng thấp hèn, Ngài thật 
xứng        với danh xưng Đại Hùng, Đại Lực.
Ngài không vì quyền lợi riêng mà        chiến đấu, 
cũng không vì tình thương yêu hạn hẹp ở cha mẹ, vợ con,        bè bạn, 
quốc gia, lãnh thổ; mà vì lòng từ vô lượng đối với tất cả        chúng 
sanh mà đi tìm con đường giải thoát cho mọi loài. Ngài xứng với        
danh hiệu Đại Từ, Đại Bi.
Vì tình thương yêu rộng lớn,        không bỉ thử, 
không thân sơ, nhân ngã ấy, Ngài từ bỏ cung vàng điện        ngọc, vợ 
đẹp con ngoan, uy quyền, lạc thú trần gian, cam chịu một cuộc        đời
 sống trong kham khổ, đạm bạc thiếu thốn, giáo hóa đó đây, Ngài        
xứng với danh xưng Đại Hỷ, Đại Xả.
Đọc vài trang sử tóm gọn về cuộc        đời của một 
đạo sư, một bậc thầy cao cả đáng tôn đáng kính của        nhân loại, để 
hiểu về Ngài có khác nào con muỗi hút nước ở đại        dương. Nhưng từ 
những nét đại cương, khái lược về cuộc đời của        Đức Phật cũng đủ 
làm cho chúng ta suy gẫm ý nghĩa sâu sắc và đúng đắn        mà nhân loại
 đã tôn xưng Ngài là bậc Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ,        Đại Bi, Đại 
Hỷ, Đại Xả.
Sự xuất hiện của Đức Thích Ca        Mâu Ni trong 
trần thế là cả một vinh hiển lớn cho con người và xã hội.        Ngài là
 kết tinh của muôn ngàn hương hoa Bi, Trí, Dũng; là hiện thân của       
 chân lý giải thoát, là điềm lành cho hết thảy chúng sanh trong tam 
thiên        đại thiên thế giới. Nếu cuộc đời không đau khổ tối tăm, Đức
 Phật        đã không xuất hiện ở đời. Ngài ra đời vì một mục đích trọng
 đại        là chỉ bày cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến của chính 
mình. Hay nói        khác hơn, "vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc 
cho chúng sanh, vì        lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an
 lạc cho chư Thiên và        loài người" mà Đức Thế Tôn xuất hiện ở thế 
gian.
Cuộc đời của Đức Phật là cả        một bài thuyết 
pháp hùng hồn trác tuyệt, dù cho có dùng hàng vạn ngôn từ        mỹ dụ 
cũng không thể nào diễn đạt cho hết ý nghĩa thiêng liêng. Đời        
sống của Ngài là một biểu hiện sống động cho giáo lý của Ngài. Ngài     
   nói và thực hành với kết quả mỹ mãn, tương ứng với những gì Ngài     
   thuyết giảng. Đời sống Đức Điều Ngự là cả một bằng chứng hiển        
nhiên cho giáo pháp khả thi, khả hành, khả chứng, vượt thời gian, không 
       gian, hiện tại lạc trú của Ngài. Đó không phải là những tín điều 
mặc        khải, càng không phải là những lời dạy suông, những ý niệm 
hoang tưởng,        những lý thuyết xây dựng trên mây, trên khói.
Lịch sử của Đức Phật là lịch        sử của một con 
người, nhờ tu tập bản thân, đã trở thành một con người        hoàn 
thiện, một bậc thánh giữa thế gian. "Con người vĩ đại nhất        sinh 
ra ở đời này", như lời Tagore đã nói.
Bằng cuộc đời của Ngài, bằng        những lời dạy của
 Ngài được kết tập lại trong ba tạng kinh điển,        Đức Phật đã khai 
thị cho loài người biết rằng, bất cứ một người        nào, với sự nỗ lực
 của bản thân, đều có thể vươn lên đỉnh cao của        giác ngộ và giải 
thoát. Có thể nói, không một tôn giáo nào, không một        hệ tư tưởng 
nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như        là đạo 
Phật. Tính nhân bản tuyệt vời của đạo Phật chính là chỗ đó.
Tránh mọi điều ác, làm mọi điều        lành, gột rửa 
nội tâm để trở thành một bậc thánh, một con người hoàn        thiện về 
đức hạnh và trí tuệ, mỗi con người chúng ta đều có khả năng        và 
bổn phận thực hành bức thông điệp đó, bức thông điệp bất hủ mà        
Đức Phật đã trao cho loài người, cho mỗi chúng ta./.
Chú        thích
(1) Asita (A Tư Đà): vị đạo sĩ        ẩn tu trên đỉnh
 Hymalaya, người được kính nể nhất vì đạo hạnh và        đức độ tại Ấn 
lúc bấy giờ.
(2) Channa (Xa Nặc): người hầu cận        tâm phúc bên cạnh Thái tử.
(3) Kantaka (Kiền Trắc): Theo truyền        thuyết, 
con ngựa Kantaka rất hung dữ, không ai điều phục được ngoài        Thái 
tử Siddhatta.
(4) Năm anh em Tôn giả Kodanna:        Kondanna, Bhadhya, Vappa, Mahanama và Asaji.
(5) Bodhi: Tên một loại cây tại        Ấn Độ, Hán dịch là cây bồ đề. Bodhi còn có nghĩa là trí tuệ.
Sách        tham khảo
1. Thích ThiệnSiêu, Tỏa ánh từ        quang, BTS tỉnh Thừa Thiên-Huế, Huế, 1992.
2. Thích Thiện Siêu, Phật tử,        VNCPHVN, TP HCM, 1997.
3. H.W.Schumann, Trần Phương Lan dịch,        Đức Phật lịch sử, Viện NCPHVN, TP HCM, 1997.
-oOo-
Phần        II: Từ Thành đạo đến nhập Niết bàn
A/- Dẫn        nhập
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại        nguyện lớn 
lao, một lòng từ vô hạn mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền        uy, tiện
 nghi vật chất để cầu đạo giải thoát. Và cũng với đại tâm        đại 
nguyện ấy, sau khi chứng được đạo quả Vô thượng Bồ đề, Ngài        đã 
dâng hết thời gian cho công cuộc hoằng hóa độ sanh. Đức Thế Tôn        
đã chu du khắp đất nước Ấn Độ thời xa xưa ấy, từ cực Bắc dưới        
chân núi Himalaya (núi Hy Mã Lạp) đến cực Nam bên ven sông Gange (sông 
Hằng).
B/- Nội        dung
Đức Thế Tôn đã dành những tuần        lễỵ đầu tiên để
 chiêm nghiệm đến giáo pháp thậm thâm vi diệu mà        Ngài đã chứng 
đắc, và thọ hưởng pháp lạc mà quả phúc giải thoát        mang đến. Pháp 
Cú kinh số 153, 154 đã ghi lại một trong những Phật ngôn        đầu tiên
 mà Ngài đã thốt lên trong thời gian này:
Lang thang bao kiếp sống
 Ta tìm nhưng không gặp
 Người xây dựng nhà này
 Khổ thay, phải tái sanh
 Ôi! Người làm nhà kia
 Nay ta đã thấy ngươi
 Ngươi không làm nhà nữa
 Đòn tay ngươi bị gãy
 Kèo cột ngươi bị tan
 Tâm ta được tịch diệt
 Tham ái thảy tiêu vong.
(Bản dịch của HT Thích Minh Châu)
Câu kinh như một lời ca khải hoàn,        mô tả sự 
chiến thắng vẻ vang rực rỡ sau cuộc chiến đấu nội tâm thầm        lặng 
gian nan. Anh thợ tượng trưng cho ái dục, vô minh, phiền não luôn ẩn    
    sâu kín trong mỗi con người, nay đã bị phát hiện.
Đức Phật cũng đã để lại cho        thế gian một bài 
học luân lý đạo đức đẹp đẽ, đó là sự tỏ lòng        tri ân sâu xa đối 
với cây bồ đề che nắng che mưa cho Ngài trong suốt thời        gian tầm 
đạo. Đức Thế Tôn đã đứng cách một khoảng xa để chiêm        bái đại thọ 
suốt trong một tuần. Sau này, nơi đây Vua Asoka (A Dục) dựng        lên 
một tháp kỷ niệm gọi là Animisalocana Cetiya, nay vẫn còn.
Đức Thế Tôn đã suy nghĩ đến giáo        lý giải thoát
 sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh cao thượng, siêu        lý 
luận, ly dục, vô ngã mà Ngài đã chứng đắc; còn chúng sanh thì luôn      
  chìm sâu vào ái dục, định kiến, chấp ngã, với nhiều thủ trước... làm  
      thế nào để con người dễ dàng chấp nhận giáo lý ấy. Và rồi, với    
    trí tuệ của bậc giác ngộ, Đức Thế Tôn đã quan sát thế gian và thấy  
      rằng: "Có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời;  
      có hạng độn căn, lợi căn; có hạng thiện tánh, ác tánh; có hạng dễ 
       giáo hóa, khó giáo hóa... Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ 
sen trắng,        sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vươn lên 
khỏi mặt nước,        được nuôi dưỡng dưới nước; có loại sanh ra dưới 
nước, lớn lên dưới        nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước 
thấm ướt..."        (Trung Bộ I). Và như vậy, với hình ảnh những cành 
sen vươn ra khỏi mặt        nước, những cành ở lưng chừng, những cành ở 
sâu trong lòng nước        v.v..., đã gợi lên trong Thế Tôn về căn cơ 
bất đồng của mọi người.        Có những căn cơ thấp như cánh sen ở đáy 
hồ, có những căn cơ trung bình        như những cánh sen ở lưng chừng 
nước, cũng có những căn cơ cao có thể        tiếp thu trọn vẹn giáo pháp
 của Ngài như những cành sen đã nhô ra khỏi        mặt nước.
Dù sống trong nghiệp quả bất đồng,        mỗi chúng 
sanh đều có hạt giống giác ngộ, như hoa sen dù sống trong bùn        
tanh hôi, vẫn tỏa hương thơm ngát.
Với ba lần thỉnh cầu và phát khởi        thiện nguyện
 hộ trì giáo pháp của Phạm Thiên, Đức Thế Tôn quyết định        gióng 
lên tiếng trống pháp và bắt đầu thực hiện sứ mạng của mình.        Ngài 
tuyên bố với thế gian, với loài người, với cõi trời và với tất        
cả, con đường đạo cứu khổ và diệt khổ, con đường dẫn tới cõi bất        
sanh bất diệt, cõi Niết bàn đã được khai mở: "Cửa bất tử rộng        mở,
 Cho những ai chịu nghe..." (Trung Bộ I). Và bánh xe pháp đã bắt đầu    
    chuyển vận.
I/- Bài        pháp đầu tiên - ngôi Tam bảo được hình thành - sự khởi đầu của Giáo        hội Phật giáo
Sau khi quyết định truyền bá đạo        lý cứu khổ 
cho muôn loài, Đức Phật dùng tuệ nhãn quan sát thế gian xem        ai là
 người có cơ duyên để hóa độ trước, và Ngài nghĩ ngay đến hai        vị 
thầy cũ của mình là Alara Kàlama (A-la-ra Ka-la-ma) và Uddaka Ramaputta 
(Uất        Đầu Lam Phất) , nhưng cả hai đã qua đời cách đó không lâu. 
Đức Thế        Tôn nghĩ đến năm người bạn đồng tu khổ hạnh đã rời bỏ 
Ngài trước        kia, đang ở tại vườn Nai (Lộc Uyển) - Benares (Ba La 
Nại) và lên đường        đi đến đó.
1)- Bài pháp đầu tiên: Tại đây,        bài pháp đầu 
tiên, bài giảng về Tứ diệu đế (Tứ thánh đế) được        Đức Thế Tôn chỉ 
bày rõ ràng. Nghe xong, Tôn giả Kodanna (Kiều Trần Như)        chứng quả
 Tu Đà Hoàn.
Đức Thế Tôn đã thu nhận năm Tôn        giả làm các đệ tử xuất gia đầu tiên - và thế là ngôi Tam bảo đã        được hình thành.
Để đánh dấu sự kiện đáng ghi        nhớ này, về sau 
người ta đã biểu trưng nó với hình ảnh bánh xe với 2        con nai hai 
bên. Hai con nai biểu tượng cho địa điểm thuyết pháp (Lộc Uyển)        
và bánh xe Dhamma Cakka tức là bánh xe pháp (Pháp luân). Cả đầu đề bài  
      kinh được giảng là: Dhamma Cakkappavattana, có nghĩa là Chuyển 
Pháp Luân        (chuyển bánh xe pháp).
2)- Nội dung kinh Chuyển Pháp Luân:        Đức Thế 
Tôn mở đầu bằng lời khuyên các tu sĩ không nên mắc vào hai        cực 
đoan: một là đam mê thú vui dục lạc thế gian, vì nó giả tạm, nhất       
 thời, tầm thường, ngăn cản mọi tiến bộ tâm linh; cực đoan thứ hai là   
     khổ hạnh ép xác, nó làm mỏi mệt tinh thần, mê mờ trí tuệ. Và Ngài  
      khuyến tấn họ nên theo con đường trung đạo dẫn tới một cuộc sống  
      thanh tịnh, trí tuệ, sáng suốt, giải thoát tối hậu. Đó là con 
đường        đạo tám nhánh - Bát chánh đạo: 1- Chánh tri kiến: thấy biết
 chân chánh.        2- Chánh tư duy: suy nghĩ chân chánh. 3- Chánh ngữ: 
nói năng chân chánh. 4-        Chánh nghiệp: hành động chân chánh. 5- 
Chánh mạng: sinh sống chân chánh.        6- Chánh tinh tiến: siêng năng 
chân chánh. 7- Chánh niệm: nhớ nghĩ chân        chánh. 8- Chánh định: 
tập trung tư tưởng chân chánh.
Và Bốn thánh đế được Đức Phật        giảng tiếp theo,
 đó là chân lý về sự Khổ (Khổ đế), chân lý về        nguyên nhân của sự 
Khổ (Tập đế), chân lý về sự diệt Khổ (Diệt đế)        và chân lý về con 
đường diệt Khổ (Đạo đế).
Sau khi nghe Đức Thế Tôn giảng        bài pháp thứ 
hai có đầu đề Anttalakkhana Sutta bàn về thuyết Vô ngã        (không có 
cái ta), rằng năm uẩn là vô thường, nếu ai thoát khỏi tham ái        thì
 ra khỏi tái sanh, được giải thoát; năm Tôn giả Kodanna (Kiều Trần      
  Như), Bhadhya (Bạt Đề) , Vappa (Đề Bà) , Mahanama (Ma Ha Nam) và Asaji
 (Ác Bệ)        lần lượt chứng quả A La Hán.
Bấy giờ là tháng Vesàkha (giữa        tháng 4 và 5 
dương lịch), đầu mùa kiết hạ, Giáo hội của Đức Thế Tôn        an cư mùa 
mưa đầu tiên tại đây.
3)- Giáo hóa Yasa (Da Xá): Gần        Benarès, có con
 trai của một người triệu phú tên là Yasa. Chán cuộc đời        xa hoa 
phú quý tầm thường vô vị của thế gian, chàng tìm đến Đức Phật;        
sau khi nghe pháp đã xin xuất gia và chẳng bao lâu chứng quả vị A La 
Hán.        Cha của Yasa trên đường đi tìm con cũng đến vườn Nai thính 
pháp và xin        quy y. Ông trở thành đệ tử tại gia đầu tiên của Đức 
Phật. Tại nhà        của Yasa, mẹ và vợ của chàng cũng quy y Tam bảo. 
Bốn người bạn thân của        Yasa là Vimàla (Tỳ Ma La), Subhàhu (Tu Bà 
Hầu), Punnaji (Phú Lan Ca Na) và        Gavàmpati (Già Bà Bạt Đế) cũng 
như hơn 50 bạn khác từ các gia đình và        địa phương gần xa nghe tin
 Yasa xuất gia, cũng lạy cha mẹ, từ giã gia đình        xin theo chân 
Đức Phật, và sau một thời gian đều đắc Thánh quả.
4)- Đoàn Tăng sĩ thuyết pháp đầu        tiên: Lúc bấy
 giờ, Đức Thế Tôn đã có 60 người đệ tử đều là A La        Hán. Ngài 
quyết định đưa họ đi khắp nơi để truyền bá chánh pháp. Trước        khi 
họ lên đường, Ngài đã động viên, kêu gọi các đệ tử rằng:        "Hỡi các
 Tỳ kheo! Như Lai đã được giải thoát khỏi mọi ràng buộc        thế gian 
và xuất thế gian, các ông cũng vậy... Này các Tỳ kheo, hãy đi vì        
lợi lạc của nhiều người, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng lân mẫn      
  đối với thế gian, vì lợi lạc, vì hạnh phúc của trời và người. Các     
   ông hãy đi, nhưng đừng đi hai người cùng một hướng, hãy đi mỗi người 
       một ngả, hãy truyền bá chánh pháp. Này các Tỳ kheo, chánh pháp 
toàn thiện        ở phần đầu, phần giữa cũng như phần cuối, cả trong ý 
tứ và lời văn.        Hãy tuyên bố về cuộc sống toàn thiện và thanh 
tịnh... Chính Như Lai        cũng đi, Như lai sẽ đi về hướng Uruvela (Ưu
 Lâu Tần Loa) ở Sanànigàma        để hoằng dương giáo pháp. Hãy phất lên
 ngọn cờ của bậc thiện trí,        hãy truyền dạy giáo pháp cao siêu, 
hãy mang lại sự tốt đẹp cho người        khác; được vậy, là các ông đã 
hoàn tất nhiệm vụ" (Mahavagga - Đại        Phẩm 19, 20).
Đức Phật không khuyên tất cả mọi        người nên rời
 bỏ đời sống gia đình để xuất gia, trở thành người        sống không nhà
 cửa, không tài sản, sự nghiệp. Một người cư sĩ cũng có        thể sống 
đời cao đẹp thích ứng với giáo pháp và đắc quả Thánh. Cha        mẹ và 
vợ của Yasa là những người tu tại gia đầu tiên bước theo dấu        chân
 của Đức Phật, tất cả đều tiến triển đầy đủ về tinh thần        và thành
 tựu đạo quả Tu Đà Hoàn.
Lần đầu tiên trong lịch sử thế        giới, Đức Phật 
và 60 người học trò chứng quả A La Hán tổ chức        thành một Tăng 
đoàn những tu sĩ khất thực, không có trụ xứ nhất định,        không có 
của cải vật chất nào khác ngoài tấm áo vàng che thân và một        bình 
bát để khất thực nuôi thân. Trong mưa nắng, trong sương gió, làng mạc   
     hay phố thị, rừng núi hay đồng hoang đều có dấu chân của những con 
người        thuyết giảng về đạo lý cứu khổ và đời sống thánh hạnh, và 
tự        mình nêu gương sáng về cuộc sống thanh tịnh và giải thoát. Đó 
là sự        nghiệp, là nội dung chủ yếu của Tăng đoàn đầu tiên do Đức 
Thế Tôn        đích thân thành lập và chỉ đạo. Có thể nói, đây là sự 
khởi đầu của        Giáo hội Phật giáo.
II/- Hóa        độ rộng lớn và cùng khắp
Sứ mạng hóa độ - con đường giáo        hóa của Đức 
Thế Tôn thật vô cùng nặng nề và khó khăn, nhưng với lòng        bi mẫn 
rộng sâu, tinh thần bình đẳng triệt để và một ý chí dũng mãnh        vô 
song, Đức Thế Tôn đã tùy theo căn cơ của mọi người mà dùng nhiều        
phương tiện thiện xảo giáo hóa, như một bậc y vương đã tùy bệnh mà      
  cho thuốc, đã hoàn thành sứ mạng thiêng liêng một cách viên mãn và đã 
       đề ra một con đường giáo dục thật mới lạ trong lịch sử nhân loại.
1)- Cảm hóa ba anh em ông Kassapa (Ca        Diếp) - 
giáo chủ thần lửa: Sau khi 60 vị Tỳ kheo mỗi người đi về một        
hướng, Đức Thế Tôn cũng đi về hướng Uruvela. Dọc đường, trong một       
 khu rừng nhỏ, Đức Phật đãả hóa độ cho 30 thanh niên đang vi đùa cùng   
     vợ của họ và một kỹ nữ ở trong rừng.
Gần Uruvela có ba anh em Kassapa:        Uruvela 
Kassapa (Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp) , Nadi Kassapa (Na Đề Ca Diếp) và      
  Gaya Kassapa (Già Da Ca Diếp). Ba anh em ông là những người có danh 
vọng lớn        ở Magadha, đặc biệt là người anh cả Uruvela Kassapa, ông
 này thờ thần lửa        và tự cho mình đã chứng quả A La Hán. Trọ qua 
đêm và bị cố ý thu xếp        cho ở căn phòng thờ thần lửa có một con 
rắn chúa rất độc và dữ tợn,        Đức Phật đã hàng phục con rắn thiêng 
này, ngoài suy nghĩ của ông        Uruvela Kassapa. Tin rằng chính Đức 
Phật là người đã chứng quả Thánh,        chứ không phải là mình, ba anh 
em ông Kassapa và 1.000 đệ tử đều xin xuất        gia theo Phật.
Sau đó, Đức Phật đã đến Gàya        Sirà (rừng Thệ 
Đa) cách Uruvela không xa lắm. Chính nơi đây, Đức Thế Tôn        đã 
thuyết giảng kinh Adittapariyàya Sutta (bài kinh với chủ đề: Thế gian   
     là tòa nhà cháy rực bằng ngọn lửa tham, sân, si, sanh, già, bệnh, 
chết,        sầu bi, khổ não và thất vọng). Các Tỳ kheo có mặt đều đắc 
quả A La        Hán.
Khi vừa thoát ly gia đình để tầm        đạo, Đức Phật
 có lúc đã ngụ tại Pàndavapabbata. Vua Bimbisàra (Tần Bà        Sa La - 
Bình Sa Vương) lấy làm cảm kích trước tướng mạo oai nghi và tư        
cách trang nghiêm, sang trọng, khiêm tốn, đã cho người dò hỏi lai lịch. 
       Sau khi biết được chí nguyện của vị Thái tử đầy hùng tâm này, đức
        Vua xin Ngài hãy trở lại viếng thăm vương quốc Magadha (Ma Kiệt 
Đà) do        vua cai trị, khi chứng đạo quả.
Nhớ lời hứa xưa, Đức Thế Tôn        cùng trên 1.000 
đệ tử A La Hán từ Gàya đến Ràjagaha (Vương Xá) , thủ        phủ của 
vương quốc Magadha giàu mạnh. Và tại đây, Vua Bimbisàra hiểu        được
 giáo pháp cao diệu liền chứng Sơ quả và xin quy y Tam bảo, cùng        
dâng cúng tinh xá rộng lớn có tên là Veluvanàràma (Trúc Lâm tinh xá) gần
        thành Ràjagaha. Có thể coi đây là tự viện đầu tiên ra đời, và 
Vua        Bimbisàra là vị thí chủ đầu tiên trong hàng vua chúa. Tại 
tinh xá yên tĩnh        này, Đức Phật và đại chúng đã nhập hạ một lần 3 
năm liên tiếp và        3 hạ khác, xa cách nhau.
2)- Thâu nhận Sàriputta (Xá Lợi Phất)        và 
Moggallàna (Mục Kiền Liên): Gần Ràjagaha có một làng tên Upatissa, còn  
      có tên là Nàlaka, Sàriputta - một chàng trai thông minh - là người
 ở làng        này. Vì xuất thân ở một gia đình quyền quý nhất làng, nên
 chàng còn        được gọi là Upatissa.
Cùng với người bạn thân ở làng        Kolita tên gọi 
Moggallàna, có chung một nhận thức rằng tất cả những        thú vui vật 
chất đều tạm bợ, trống rỗng và vô vị. Hai chàng trai quyết        định 
từ bỏ gia đình, lang thang đi tìm chân lý và thọ giáo với đạo        sĩ 
Sàsajaya, người có rất nhiều đồ đệ. Nhưng do không thỏa mãn với        
giáo lý của vị thầy hữu danh này và sau đó là nhiều đạo sĩ khác, cả     
   hai chia tay nhau và thề hẹn rằng: Nếu ai tìm ra con đường đạo giải 
thoát        trước, sẽ cho người kia hay.
Trong một dịp bất ngờ, ngài        Sàriputta đã xúc 
động mạnh trước phong thái giải thoát, trầm tĩnh, siêu        phàm đang 
đi trì bình một cách thong dong để giáo hóa mọi người ở thành        
Ràjagaha của ngài Assaji (Ác Bệ hay Mã Thắng hoặc Thuyết Thị). Cho rằng 
       đây hẳn là bậc A La Hán, hay cũng là người đang trên con đường 
dẫn đến        đạo giác ngộ, Sàriputta đã đợi cơ hội và liền đảnh lễ, 
thưa hỏi:        "Kính bạch Tôn giả! Các căn của Ngài thật bình thản, an
 tịnh. Màu        da của Ngài thật trong sáng. Vì sao Ngài thoát ly thế 
tục? Ai là đạo sư        của Ngài? Giáo lý của Ngài là gì?".
Trước những câu hỏi chân thật,        khiêm tốn và sự
 khẩn khoản yêu cầu của Sàriputta, ngài Assaji đã đọc        tóm tắt 
giáo lý mà Ngài đã học ở Đức Thế Tôn bằng bài kệ:        "Các pháp do 
nhân duyên sanh, Duyên ấy Như Lai đã chỉ rõ, Và dạy phương        tiện 
để chấm dứt, Đó là giáo pháp của bậc Đại Sa môn".
Là người thông tuệ và trí óc đã        thuần thục để 
thấu triệt chơn lý sâu xa, dù nó chỉ được gợi ra một        cách vắn 
tắt, Sàriputta đã chứng Sơ quả (Sotàpayti - Tu Đà Hoàn) khi vừa        
nghe hai câu đầu.
Theo lời giao hẹn, Sàriputta liền        thông tin 
cho bạn thân. Moggallàna cũng đã chứng Sơ quả. Do lời tha thiết        
yêu cầu của cả hai, Đức Phật đã nhận hai ông vào Tăng đoàn tại tinh     
   xá Veluvana với câu nói đơn giản: "Etha, Bhikkhave! (Hãy đến đây, các
        Tỳ kheo!). Nửa tháng sau, Sàriputta chứng quả A La Hán, nhân 
nghe bài kinh        Vedanà Pariggha mà Đức Phật giảng cho đạo sĩ 
Dìghnakha (Trường Trảo).        Ngài Moggallàna đã chứng quả ấy trước đó
 một tuần.
Với cơ duyên lớn, Đức Phật đã        triệu tập Tăng chúng và tuyên bố hai vị là Thượng thủ trong Tăng đoàn.
Từ đấy, hai Ngài thường thay mặt        Thế Tôn để 
hướng dẫn Tăng chúng. Đây là thời điểm đánh dấu sự        phát triển lớn
 mạnh của Giáo hội Phật giáo, dưới sự lãnh đạo của        Đức Thế Tôn.
III/- Đức        Phật và thân quyến
1)- Vua Suddhodana (Tịnh Phạn Vương):        Hay tin 
người con yêu dấu trí tuệ đã thành đạo và đang thuyết pháp        giáo 
hóa nổi danh tại Ràjagaha, đức Vua Suddhodana nóng lòng gặp mặt, liền   
     tức tốc sai nhiều sứ giả đến thỉnh Đức Phật về Kapilavatthu. Nhưng 
       chín lần ra đi là chín lần sứ giả đều ở xin xuất gia với Đức 
Phật.        Vị sứ giả thứ mười là Kàludàyi (Ca Lưu Đà Di), vốn là bạn 
thân của        Đức Phật khi còn là Thái tử, đến nơi nghe pháp cũng xin 
xuất gia và cũng        chứng Thánh quả như những vị sứ giả trước, nhưng
 ông Kàludàyi đã        chuyển đến Đức Phật lời yêu cầu được gặp mặt của
 vị vua già yếu.
Sau hai tháng, Đức Thế Tôn và đại        chúng đã về 
đến Kapilavatthu. Trước đạo phong của Đức Phật, Vua        Suddhodana đã
 cúi đầu kính lễ lần thứ ba. Và sau khi Đức Thế Tôn thuyết        pháp 
lần thứ nhất, đức Vua đã chứng Sơ quả, và đạt quả thứ hai        
(Sakkadagami - Tư Đà Hàm) khi nghe bài pháp kế tiếp. Lần thứ ba, khi 
nghe        bài pháp có tên Dhammapala Jàtaka (Trì Pháp Túc Sanh truyện,
 số 447), đức        Vua đắc quả Anagami (A Na Hàm). Với bài pháp này, 
di mẫu Pajapati Gotami đã        chứng Sơ quả.
Sau này trên giường bệnh, Vua        Suddhodana lại 
được Đức Phật về thăm và giảng pháp cho nghe. Đức Vua        sau 7 ngày 
tận hưởng pháp lạc do đắc quả A La Hán, đã băng hà trong định        
tĩnh. Năm ấy, Đức Phật ở tuổi 40 và đang an cư lần thứ năm. Cũng        
trong hạ thứ năm này, Giáo hội Ni được thành lập. Và ở hạ thứ bảy,      
  Đức Phật đã lên cung trời Tusita (Đao Lợi) thuyết pháp độ chư Thiên   
     và Hoàng hậu Maya.
2)- Yasodhara(Da Du Đà La): Sau khi        Thái tử 
rời bỏ cung vàng, Công chúa Yasodhara cũng bỏ hết đồ trang sức,        
mặc y vàng của người tu sĩ, và trong khoảng 6 năm trường, đã thủy       
 chung, tận tình nuôi dạy đứa con độc nhất Ràhula đến tuổi lớn khôn.
Nghe vua cha tán dương đức hạnh của        nàng dâu, 
Đức Thế Tôn đã giảng kinh Candakinnara Jàtaka và nói thêm rằng:        
"Không phải chỉ kiếp cuối cùng này, mà trong những tiền kiếp, Công      
  chúa cũng đã từng bảo vệ, kính mộ và thủy chung với Như Lai".
Sau khi Vua Suddhodana qua đời, di mẫu        
Pajapati xuất gia làm Tỳ kheo ni, Công chúa cũng được xuất gia và đắc 
quả        A La Hán sau đó. Trong hàng Ni chúng, Công chúa là người có 
thần thông bậc        nhất. Bà nhập Niết bàn năm 78 tuổi. Trong kinh 
Apadana còn ghi lại những        câu kệ do bà giảng thuyết.
2)- Ràhula (La Hầu La): Ràhula sinh ra        đúng 
ngày mà Thái tử quyết định thoát ly thế tục. Cậu bé trưởng thành        
trong cảnh không cha, được ông nội và mẹ nuôi dưỡng. Khi lên bảy tuổi,  
      cũng đúng vào ngày thứ 7 Đức Thế Tôn lưu lại quê nhà, Ràhula luôn 
       luôn quấn quýt bên chân Đức Phật, nũng nịu đòi gia tài như lời mẹ
 dặn.        Đức Phật quyết định giao "Thất thánh tài" (1) cho cậu bé 
bằng        cách nhận cậu vào Tăng đoàn và giao cho ngài Sariputta dạy 
dỗ.
Thật khó tưởng tượng một cậu        bé lên bảy có thể
 sống đời sống cao thượng của bậc xuất trần thượng        sĩ. Nhưng Sa 
di Ràhula vừa thông minh đặc biệt, vừa biết vâng lời        chuyên cần 
tu học. Kinh ghi rằng mỗi sáng, vị Sa di trẻ này dậy thật sớm,        
bốc một nắm cát tung lên và nguyện: "Mong rằng ngày hôm nay ta học      
  được nhiều như bao nhiêu cát đây...".
Một trong những bài kinh nổi tiếng        mà Đức Phật
 đích thân dạy cho Ràhula là bài Ambalatthika Rahulovada Sutta        
(kinh Giáo Giới La Hầu La), nhấn mạnh về tầm quan trọng của sự chân 
thật,        phương pháp phản tỉnh để diệt trừ mọi ý niệm, lời nói, hành
 động        bất thiện.
Năm lên 18 tuổi, một lần cùng Đức        Phật đi khất
 thực, phong độ và oai nghi quý phái của hai vị tu sĩ xem tựa        như
 thớt ngự tượng dõng dạc cùng đi với tượng con ngoan hiền, như thiên    
    nga của vua dắt con lội trên mặt hồ trong ngự uyển, như hổ chúa oai 
       phong cùng hùm con lẫm liệt. Cả hai Ngài đều có thân hình vô cùng
 đẹp        đẽ, cả hai đều thuộc dòng dõi quý tộc từ khước ngai vàng cất
 bước        ra đi. Trong lúc chiêm ngưỡng Thế Tôn, Ràhula nảy lên ý 
niệm nghĩ về thân        hình đẹp đẽ của mình và Đức Phật. Biết được ý 
tưởng đó, Đức        Thế Tôn đã nói bài kệ bất hủ "N’etam mama (cái này 
không phải của        ta); N’eso’ham’asmi (cái này không phải là ta); Na
 me so attà (cái này        không phải tự ngã của ta)" - xem 
Anattalakkhana Sutta, bài II.
Và sau khi nghe kinh Cùla Ràhulovàda        Sutta, 
Ràhula chứng quả A La Hán. Ngài nhập diệt trước cả Đức Phật và        
ngài Sàriputta. Ngài nổi tiếng là người tôn trọng kỷ luật. Bạn bè       
 thân gọi Ngài " Ràhula may mắn", vì đời Ngài có được hai diễm        
phúc: là con của Đức Phật và chứng ngộ được chơn lý; như trong kinh     
   Theragàthà (Trưởng Lão Tăng Kệ), Ngài đã đề cập đến điều ấy.
4)- Ananda (A Nan): Con của Hoàng thân        
Amitodana, em trai Vua Suddhodana, Ananda là anh em chú bác với Đức 
Phật. Ông        sanh ra mang lại niềm hoan hỷ cho hoàng tộc, nên được 
đặt tên là Ananda        (Khánh Hỷ). Hai năm sau khi Phật thành đạo, ông
 xuất gia cùng với các        thanh niên của dòng họ Sakya là Anurudha 
(A Nâu Lâu Đà), Baddhiya (Ba Đề),        Bhagu (Ba Gu), Kimbala (Kim Tỳ 
La) và Devadatta (Đề Bà Đạt Đa). Không bao        lâu, ông chứng Sơ quả 
khi nghe bài pháp của Đại đức Puna Mantàniputta        (Phú Lâu Na Mãn 
Từ Tử). Năm Đức Thế Tôn 55 tuổi, với 8 điều thỉnh cầu        mà ông đưa 
ra là: 1- Đức Phật không ban cho Ngài những bộ y mà thiện        tín 
dâng cho Đức Phật; 2- Không ban cho Ngài những vật thực mà thiện        
tín dâng cho Đức Phật; 3- Cho phép không ở chung tịnh thất với Đức Phật;
        4- Không cho phép Ngài đi theo đến nơi thí chủ chỉ thỉnh Đức 
Phật; 5-        Đức Phật hoan hỷ đến nơi mà thí chủ chỉ thỉnh Ngài đến; 
6- Hoan hỷ        cho phép Ngài tiếp dẫn những người từ phương xa đến ra
 mắt Phật; 7-        Hoan hỷ cho Ngài thưa hỏi mỗi khi có điều hoài 
nghi; 8- Hoan hỷ giảng lại        bài pháp mà Đức Phật giảng khi Ngài 
không có mặt.
Được Đức Phật chấp thuận với        ý nghĩa của nó, 
và giữa đại chúng, ông được cử làm thị giả Đức        Thế Tôn suốt 25 
năm trường sau đó. Ông làm công việc của mình thật tận        tụy. Kinh 
ghi rằng, đêm đêm Đại đức Ananda tay cầm gậy, tay cầm đuốc        đi 
chung quanh tịnh thất của Đức Phật 9 lần, để Ngài khỏi bị quấy        
rầy.
Tôn giả Ananda có một trí nhớ tốt        lạ lùng: ông
 ghi nhớ không bỏ sót tất cả các bài pháp của Đức Phật,        cũng như 
của một số các đệ tử lớn của Ngài, mà ông được nghe qua.        Khi có 
một Bà La Môn hỏi Tôn giả nhớ được bao nhiêu bài kinh, Tôn giả        
trả lời là được 82.000 bài của Đức Phật và 2.000 bài của các Tôn giả    
    khác thuyết.
Đức Phật đã tán thán 5 đức hạnh        của Tôn giả 
Ananda là học uyên bác, trí nhớ tuyệt hảo, kiên định,        săn sóc chu
 đáo và ứng xử tốt.
Mãi sau khi Đức Thế Tôn nhập diệt,        Tôn giả 
Ananda mới chứng quả A La Hán, trước một ngày Đại hội kết tập        
kinh điển lần thứ nhất xảy ra, trong khi nghiêng mình nằm xuống. Kinh   
     sách ghi rằng, Ngài là vị A La Hán độc nhất đắc quả ngoài lúc đi, 
đứng,        nằm, ngồi. Tôn giả mất năm 120 tuổi.
- IV/- Di mẫu Maha Majàpati            Gotami xuất gia:
- Giáo hội Ni giới ra            đời
Được gọi là Maha Pajàpati (Ma Ha        Ba Xà Ba Đề) 
bởi vì các nhà tiên tri thời bấy giờ cho rằng về sau bà        sẽ cầm 
đầu một đám đông người. Con trai bà là Nandà (Nan Đà), em một        cha
 khác mẹ với Thái tử Siddhattha, cũng được Đức Thế Tôn độ cho xuất      
  gia khi chàng trai này đang tổ chức 3 đại lễ quan trọng: kết hôn, 
phong tước        và khánh thành cung điện mới.
Tuy công bố rằng nữ giới cũng có        thể chứng 4 
Thánh quả (bà Maha Pajàpati đã chứng Sơ quả, như đã nói        ở trước),
 nhưng con đường tu hành sống không gia đình, khép mình vào        khuôn
 khổ của giáo pháp và giới luật, cũng như sứ mạng hoằng hóa độ        
sanh thật lắm gian nan, khó nhọc. Với bản tánh mềm yếu và dễ cảm        
xúc, phụ nữ khó đảm đương nổi trách nhiệm thiêng liêng, cao cả lẫn      
  nặng nề của một sứ giả Như Lai. Vì thế mà sau khi Vua Suddhodana băng 
hà,        di mẫu dù ba lần bạch xin xuất gia, Đức Thế Tôn vẫn từ chối 
không        nêu lý do.
Mãi đến khi bà cùng nhiều mệnh        phụ phu nhân 
của dòng Sakya (Thích Ca) xuống tóc, đắp y vàng, đi bộ từ        
Kapilavatthu đến Vesàli (Tỳ Xá Ly), đoạn đường gian khổ dài khoảng 200  
      cây số, đôi chân sưng phồng, thân thể lấm lem cát bụi, đến bên 
tinh        xá Đức Phật khóc than. Và chính nhờ Tôn giả Ananda thay mặt 
họ vào cầu        thỉnh Đức Thế Tôn đến lần thứ tư, Ngài mới chấp thuận 
cho di mẫu        cùng các bà được sống đời sống xuất gia, với điều kiện
 phải chấp        hành 8 điều quy định cho một người nữ trong Tăng đoàn.
 Khi nghe Ananda        thuật lại 8 điều ấy, bà Maha Pajàpati cùng các 
vị trong đoàn đều hoan        hỷ đồng ý, và thế là Giáo hội Ni giới được
 thành lập.
Khi ưng thuận cho Ni giới được        gia nhập vào 
Giáo hội, Đức Phật cũng đã lưu ý đại chúng nhiều vấn        đề. Ngài dạy
 rằng: "Này Ananda, trong ngôi nhà nào nhiều nữ giới        và ít đàn 
ông thì ăn trộm dễ lọt vào. Cũng dường như thế, nếu hàng        phụ nữ 
sống trong pháp và luật của Như Lai thì giáo pháp thiêng liêng        
khó duy trì lâu. Cũng như người đắp đê bên một hồ nước rộng lớn        
cho nước không tràn qua, ta cũng vậy, chế ra Bát kỉnh pháp cho các Tỳ   
     kheo ni để họ tuân thủ trọn đời".
Trong một tổ chức xã hội quy mô        nào, ta cũng 
thấy vì tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của một giới, một        đối tượng
 cá biệt nào đó, mà ở trong những nguyên tắc sống, làm việc        luôn 
có những khoản ưu tiên dành riêng cho họ.
Đức Phật đã không làm giảm suy        giá trị của 
hàng phụ nữ, mà còn là vị giáo chủ đầu tiên trong lịch        sử nhân 
loại đã thành lập một đoàn thể, một tổ chức, một giáo hội        cho nữ 
giới với đầy đủ pháp và giới luật. Ấn Độ đương thời với        nhiều tôn
 giáo, nhưng không có một đoàn thể nữ giới nào được sinh hoạt        như
 vậy.
Ít lâu sau, bà Tỳ kheo ni Maha        Pajàpati đắc A 
La Hán. Kinh Therigàthà (Trưởng lão Ni kệ) còn ghi rất nhiều        tên 
và các bài kệ do các Tỳ kheo ni chứng Thánh quả sáng tác.
V/-        Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) - những người chống đối
Mặc dầu gia công kiến tạo hạnh        phúc giải thoát
 cho mọi người với một chủ ý tuyệt đối tinh khiết và        hoàn toàn 
bất vụ lợi, cũng như không có một sự phân biệt nào giữa        giàu 
nghèo, quyền quý, mạt hạng, trí thức hay u mê, Đức Phật luôn phải       
 đương đầu với nhiều sự đối nghịch mãnh liệt trên con đường chu du      
  hoằng hóa. Ngài bị chỉ trích nghiêm khắc, bị đối xử tàn tệ, chửi mắng 
       và tấn công một cách tàn bạo. Kẻ đối nghịch là những người theo 
các        hệ thống tôn giáo chủ trương những nghi thức dị đoan, tạo ra 
phong tục        vô ích, có hại đến xã hội và ngăn chặn sự tiến bộ của 
tinh thần,        hoặc là những kẻ có tham vọng thấp hèn, vị kỷ. Trong 
ấy, Devadatta là        một điển hình lớn nhất.
Ông là con Vua Suppabuddha và Hoàng hậu        
Pamità, một người cô của Đức Phật; Công chúa Yasodharà là chị ông.      
  Ông xuất gia cùng một lượt với Đại đức Ananda và các thanh niên hoàng 
       tộc Sakya, tuy không chứng quả Thánh nào, nhưng lại giỏi thần 
thông và        được Vua Ajàtasattu (A Xà Thế) ủng hộ tối đa về mọi mặt.
 Thời gian        đầu xuất gia, ông có nếp sống gương mẫu, cao thượng 
đến độ ngài        Sàriputta đã ca ngợi tài đức của ông khắp Pajàgaha. 
Về sau, danh lợi trần        thế đã làm ông thối chuyển, trở nên người 
sống đồi trụy, tà hạnh,        tà kiến; dù vậy, ông có rất đông người 
ủng hộ. Khi niên thọ Đức        Phật đã cao, ông yêu cầu Ngài giao quyền
 lãnh đạo Tăng già, nhưng Đức        Phật đã từ chối. Ông tìm cách xúi 
giục Thái tử Ajàtasattu giết vua cha        là Bimbisàra để nắm toàn 
quyền bính và cùng âm mưu hãm hại Đức Phật.        Sau đó, các xạ thủ 
được thuê để giết Đức Phật đều được cảm        hóa thành đệ tử. 
Devadatta tự thân ra tay, bằng cách đẩy một tảng đá        lớn từ trên 
sườn núi Gijjhakuta (Linh Thứu) xuống ngay Đức Phật khi Ngài        đi 
ngang qua. May thay, tảng đá ấy va vào một tảng đá khác, vỡ ra nhiều    
    mảnh và chỉ một mảnh vụn làm chân Ngài rỉ máu, và lương y Jìvaka    
    (nhà giải phẫu đại tài của thành Rajàgaha) đã có mặt liền sau đó. 
Mưu        đồ bất thành, Devadatta lại chuốc rượu mạnh cho voi dữ 
Nàlàgin và xua        nó chạy thẳng đến ngay Đức Phật, nhưng voi cũng bị
 đức từ bi của        Thế Tôn cảm hóa.
Dần dần mất hết uy tín, dư luận        lên tiếng mạnh
 mẽ, Vua Ajàtasattu bỏ rơi, Devadatta chuyển qua một mưu        toan có 
vẻ hòa bình hơn. Ông nêu ra 5 yêu cầu đối với sự sinh hoạt của        
Tăng đoàn, với nội dung rằng: Tỳ kheo phải sống trọn đời trong rừng,    
    phải sống dưới gốc cây, mặc vải vụn lượm ở nghĩa địa, sống bằng     
   khất thực và ăn chay trọn đời. Đức Phật đã đưa ra câu trả lời rất    
    tự do dân chủ, không bắt buộc một cá nhân nào phải tuân theo điều 
ấy.
Cuối đời không còn một ai ủng hộ,        Devadatta 
rơi vào những ngày đen tối. Lâm bệnh trầm kha, với lòng ăn năn        vô
 hạn, ông mong muốn được gặp Đức Thế Tôn lần cuối cùng, nhưng không     
   còn kịp nữa, chỉ thốt ra câu quy y Phật và trút hơi thở sau cùng.
Tuy có một người đệ tử, một        người con như vậy,
 nhưng Đức Phật chỉ khuyên can mà không bao giờ chỉ        trích ông. 
Ngài còn thọ ký rằng, với đạo hạnh ban đầu, với lòng ăn        năn khi 
hấp hối, Devadatta sẽ trở thành một vị Độc Giác Phật với        danh 
hiệu Atthissara, ở một tương lai xa xôi.
VI/- Những        đại hộ pháp
1)- Anathapindika (Cấp Cô Độc): Vị        thí chủ 
quan trọng nhất thời Đức Phật tại tiền phải kể đến là        ông Sudatta
 (Tu Đạt), người Savatthi (Xá Vệ). Chuyên làm từ thiện xã hội,        
nuôi dưỡng chu cấp cho những người quan quả cô đơn, nên ông lại được    
    mọi người tặng cho danh hiệu Trưởng giả Anathapindika (Cấp Cô Độc - 
giúp        đỡ, trợ cấp cho những người cô đơn, hiu quạnh). Một lần có 
việc,        ông đến thành Ràjagaha, nghe anh rể đang chuẩn bị hôm sau 
đón Đức Phật        quang lâm. Danh từ Phật - Buddha (người tỉnh giác) 
khiến ông cảm thấy        có một sự thay đổi lạ lùng trong lòng. "Văn kỳ
 thinh" đã lâu,        nay lại sắp được "kiến kỳ hình", nhưng không thể 
chờ đợi        đến ngày mai; như có một chuyện gì thôi thúc, ngay đêm 
khuya, ông băng rừng        đến nơi Sìtavara ra mắt Đức Phật và được cảm
 độ từ ấy.
Với lời thách thức nửa đùa nửa        thiệt của Thái 
tử Jeta (Kỳ Đà), ông đã đem những đồng tiền vàng        lót đầy mặt đất 
trong khu vườn của Jeta. Lòng tín thành của ông đã        gây được lòng 
ngưỡng mộ của Thái tử Jeta đối với Đức Phật. Sau        đó, hiệp với 
những tàng cây do Jeta cúng, ông xây dựng tinh xá Jetavana (Kỳ        
Viên) dâng lên Đức Phật. Chính nơi đây, Đức Thế Tôn trải qua 19 lần     
   an cư kiết hạ. Phần lớn những bài pháp cũng được hình thành ở ngôi   
     tinh xá nằm ở Savatthi này, và nó được nhận biết nhờ qua câu kinh  
      "Xá Vệ, Kỳ thọ, Cấp Cô Độc viên..." (nước Savatthi, cây của       
 Jeta và vườn ông Anathapindika). Các bài pháp liên quan đến hàng cư sĩ 
đều        do công của ông thưa hỏi. Trong một bài pháp nói về hạnh bố 
thí, Đức        Phật đã dạy rằng, cúng dường chỗ ăn, chỗ ở của chư Tăng 
là tạo        nhiều công đức; nhưng quy y Tam bảo có công đức hơn, và 
cao hơn là        nghiêm trì ngũ giới. Công đức cao hơn giữ giới là 
thiền quán và từ bi        tâm. Nhưng công đức tối thượng phải là phát 
triển tuệ giác, thể nhập        chơn như, thấy được thật tướng của các 
pháp - Vipassanà (Minh sát tuệ),        Tăng Chi IV.
Cũng từ gia đình ông trưởng giả        này, Đức Phật 
đã giảng bài pháp phân chia 7 loại vợ trong cuộc sống        kiến tạo 
hạnh phúc gia đình lứa đôi. Một bài pháp rất tinh tế, thiết        thực;
 một bài học giáo dục đầy tâm lý cho cả xã hội ngày nay và mai        
sau.
2)- Visàkhà: Vị nữ thí chủ lớn        nhất phải đề 
cập đến đầu tiên là bà Visàkhà, con gái triệu phú        Dhananjaya và 
bà Summanà Devi; ông nội bà cũng là triệu phú tên Mendaka. Bà        xây
 cúng tinh xá Pubbasama, cũng ở Savatthi (6 mùa an cư đã diễn ra ở đây).
        Là người phụ nữ được 5 điều diễm phúc: tóc, da, xương, vóc dáng 
và        sức khỏe tuyệt hảo, bà còn là người công, dung, ngôn, hạnh vẹn
 toàn,        sáng suốt trong công việc thế gian cũng như trong phạm vi 
tinh thần đạo        đức. Bà Visàkhà đóng một phần quan trọng trong 
nhiều lĩnh vực khác        nhau liên quan đến sinh hoạt Tăng đoàn. Có 
lần Phật dạy bà đi hòa giải        những mối bất đồng giữa các Tỳ kheo 
ni. Đôi lúc bà thỉnh cầu Đức        Phật khai chế một vài giới cấm cho 
Tăng Ni.
Cha chồng bà là triệu phú Migàra,        vốn là tín 
đồ thuần thành của Nigantha Nataputta (Ni Kiền Tử Nhã Đề Tử),        
giáo chủ đạo Jain - đạo Lõa thể. Bà đã khuyến dụ cả gia đình bên        
chồng quy y Tam bảo và nhiều người đã chứng quả. Bà qua đời khi đã      
  thọ 120 tuổi.
3)- Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc): Ngài đại        vương 
Bimbisàra như đã nói đến ở phần trước, và người con kế vị là        Vua 
Ajàtasattu, sau khi cải ác tùng thiện đã trở nên một vị đại hộ pháp,    
    một thiện tín lỗi lạc, có công hỗ trợ mọi mặt cho cuộc kết tập      
  Tam tạng lần I. Một đại thí chủ nữa trong hàng vua chúa phải kể đến   
     là Vua Pasenadi, trị vì xứ Kosala (Kiều Tát La), có thủ phủ là 
Savatthi        (Xá Vệ). Tu viện Rajakamara là do vua cho xây cúng lên 
Đức Phật và đại        tăng. Hoàng hậu Malika, vợ của vua, là người khéo
 hướng dẫn phu quân của        mình trên con đường đạo đức, quy y Tam 
bảo. Bà đã khuyên vua nên tham vấn        với Đức Phật để hiểu ý nghĩa 
16 cơn mộng hơn là giết hại nhiều        sinh mạng để tế lễ cầu an theo 
lời các đạo sĩ Bà La Môn.
Samyutta Nikaya (kinh Tương Ưng) có trọn        một 
chương mang tựa là Kosala Samyutta, là chương Đức Phật giảng cho vua    
    nghe. Trong những bài pháp ấy, có những ý được nhấn mạnh như: 1- 
Đánh        giá một người không phải là chuyện đơn giản; 2- Nên coi 
trọng phụ nữ        như coi trọng nam giới - Itthì hi’pi ekacciyà seyyà 
(Trong hàng phụ nữ, có        người còn tốt hơn nam giới). Với xã hội Ấn
 Độ thời ấy, phụ nữ        không bao giờ được kính nể xứng đáng, lời nói
 cao quý của Đức Phật        thật là một khích lệ lớn lao cho nữ giới; 
3- Không nên coi thường giới        trẻ (như Thái tử còn trẻ, con rắn 
còn bé, ngọn lửa nhỏ và Tỳ kheo trẻ);        tất cả đều có thể trở thành
 quan trọng, ý nghĩa sau này; 4- Chiến thắng        nuôi dưỡng hận thù:
Thắng trận sanh thù oán
 Bại trận niệm khổ đau
 Ai bỏ thắng bỏ bại
 Tịch tĩnh hưởng an lạc (Tương Ưng VII)
VII/- Độ        những người cùng đinh, mạt hạng
Đạo từ bi giải thoát mở rộng        cho tất cả mọi 
người, không phân biệt giàu sang và đẳng cấp xã hội.        Một sát nhân
 như Angulimàla, một dâm nữ như Ambapali, nếu quay về với        con 
đường đạo cũng có thể chứng Thánh quả, như kinh đã ghi lại như        
sau:
1)- Angulimàla (Vô Não): Có tên là        Ahimsaka 
(người vô tội), con của một quốc sư xứ Kosala, và là một đệ        tử 
lỗi lạc, thân tín của một danh sư ở Trung tâm Giáo dục Taxila nổi       
 tiếng, nhưng do vì lòng ganh tỵ của đồng môn khiến thầy dạy đã hiểu    
    lầm ông và buộc ông phải dâng lên 1.000 ngón tay út để làm lễ cầu   
     pháp.
Ông trở nên là một hiểm họa, một        bóng đen thần
 chết bao trùm lên đất nước Kosala. Sợ quạ ăn những ngón        tay kiếm
 được, ông đành đeo vào cổ nên có hỗn danh là Angulimàla (vòng        
hoa bằng ngón tay). Đức Phật là người thứ 1.000 mà ông định sát hại     
   để tròn đủ vòng hoa mà ông thầy yêu cầu. Ông như bừng cơn mơ sát     
   nhân hãi hùng khi nghe người ông đang cố sức rượt đuổi mà không sao 
đến        gần được, thốt lên rằng: "Này Angulimàla, chính ngươi mới 
phải dừng        lại, còn Như Lai đã dừng lại lâu rồi". Ông quăng dao 
tội lỗi và        được xuất gia bởi nhân duyên đó. Bởi tội ác gây ra, 
ông trở thành một        Tỳ kheo luôn bị chửi bới, đánh đập, ném đá ở 
mọi nơi. Với ông,        chuyện đầu cổ tay chân mang nhiều thương tích, 
máu chảy đầy mình là        chuyện cơm bữa. Với tâm ăn năn sám hối cùng 
với sự nỗ lực tinh tấn        thiền định, ông đắc quả A La Hán sau đó.
2)- Ambapàli (Liên Hoa Sắc): Trường        hợp kỹ nữ 
Ambapàli nổi danh tài sắc của thành Vesali là một điển hình        khác 
của sự hóa độ vô phân biệt mà Đức Thế Tôn đang làm.
Trên đường đi Kusinara (Câu Thi Na)        để nhập 
Niết bàn, Đức Phật dừng chân ở vườn xoài của cô gái        giang hồ này.
 Nghe tin, cô liền đến thỉnh Đức Phật và đại chúng về        nhà để được
 cúng dường, dù các nhà quý tộc Licchavi (Lê Xa) đề nghị        đền bù 
cho cô một số tiền rất lớn để họ có đặc ân làm điều này.        Cô phát 
tâm cúng vườn xoài cho đại tăng, xin xuất gia; và sau sự gia        công
 chuyên cần, cô đạt Thánh quả.
"Như cơn gió lốc thổi dồn        các thứ lá lại một 
chỗ, Đức Cù Đàm giáo hóa tất cả. Trí thức-ngu        si, vương giả-bần 
cùng, nghèo hèn-giàu sang, già cả-niên thiếu, đàn bà-đàn        ông, kẻ 
ác-người thiện, tất cả và hết thảy, Đức Cù Đàm đều mang        vào giáo 
pháp và xem như nhau. Đạo của Đức Cù Đàm là đạo bình đẳng,        không 
phân biệt vậy" (kinh Đại Báo Ân).
Thật không có lời tán dương nào        nói hết được 
sự vô biên của lòng từ bi, sự bình đẳng trong con đường        giáo hóa 
của Đức Bổn Sư.
VIII/- Đức        Phật tuyên bố nhập Niết bàn
Đức Phật là một nhân vật phi thường,        tuy nhiên
 còn mang thân ngũ uẩn là còn chịu sự hoại diệt của định luật        vô 
thường.
Khi 80 tuổi, thấy niên cao sức yếu,        con đường 
giáo hóa đã viên mãn, Đức Thế Tôn quyết định nhập Niết        bàn tại 
một làng mạc xa xôi, hẻo lánh là Kusinàrà (cách Patna, thủ phủ        
tiểu bang Bihar ngày nay 180 dặm - khoảng 300 cây số - về hướng Bắc), mà
        không phải ở những đô thị lớn như Savatthi hay Ràjagaha.
Trong thời gian cuối cùng còn lưu lại        Magadha,
 Đức Phật đã giảng cho đại thần của Ajàtavattu nghe 7 điều kiện        
thịnh suy của một quốc gia, khi ông này tham vấn Thế Tôn về việc chinh  
      phục nước Cộng hòa Vajjian (Bạt Kỳ). Nhân đó, Đức Phật cũng giảng 7
        yếu tố thịnh suy của Giáo hội.
Rời Ràjagaha, Đức Phật đi về        Ambalatthika, và 
đến Nàlandà, rồi qua Pàtaligàma; nhân Đức Phật đến viếng        nơi này,
 dân chúng đặt tên cổng thành là Gotama. Từ đó, Đức Phật vượt        
sông Hằng và hướng về Kotigàma đến làng Nàdika và sau đó đi về Vesàli,  
      nhập Niết bàn cuối cùng tại đây.
Mỗi nơi chốn Ngài đi qua đều có        dấu ấn của sự tế độ mọi người.
Trong năm này, Đức Phật đã tuyên        bố giữa đại 
tăng: "Này Ananda, Giáo hội các đệ tử còn mong mỏi        gì nữa ở Như 
Lai ? Như Lai đã truyền dạy giáo pháp không có sự phân biệt        nào 
giữa giáo lý bí truyền và giáo lý công truyền. Về chơn lý, Như Lai      
  không bao giờ có bàn tay nắm lại của một ông thầy...". Và Ngài đã     
   dạy rằng không nên nghĩ là có một ai phải lãnh đạo Giáo hội và Giáo  
      hội phải tùy thuộc một ai; mà mỗi cá nhân phải là một Giáo hội, 
một        hiện thân của giáo pháp chân chánh.
Ngài tiếp lời: "... Như Lai đã        già yếu, gần 
đến ngày lìa trần. Như Lai đã 80 tuổi, không khác nào cỗ        xe quá 
cũ kỹ phải cần có những sợi dây để cột lại các bộ phận,        giữ nó 
khỏi rời ra...". Và Ngài lại kêu gọi sự nỗ lực tinh tấn,        giác 
tỉnh chánh niệm, khước từ mọi tham ái thế gian, quán niệm Bốn niệm      
  xứ (2)... của các Tỳ kheo. Ngài nói thêm rằng: "Các ông hãy xem chính 
       mình là hải đảo của mình, chính mình là nơi nương tựa của mình,  
      không nên nương tựa bên ngoài. Hãy xem giáo pháp là hải đảo của 
các        ông, giáo pháp như chỗ nương tựa, không nên nương tựa bên 
ngoài".        Ngài lại đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của nỗ lực cá 
nhân.
Mặc dầu tuổi cao sức yếu, Đức        Phật luôn vận 
dụng mọi cơ hội để khuyên dạy các Tỳ kheo bằng nhiều        phương thức 
khác nhau.
Ở Càpalà, Đức Thế Tôn tuyên bố        3 tháng sau nhập Niết bàn.
Trước đây, Đức Thế Tôn đã tạo        cơ hội cho 
Ananda thỉnh cầu sự trụ thế lâu dài hơn nữa của Ngài, nhưng        
Ananda đã vô tình bỏ qua; giờ nghe Đức Phật tuyên bố như vậy, Ngài liền 
       khẩn cầu nhưng bị từ chối.
Trước khi cùng Ananda đi về Mahàvana,        Đức Phật
 đã giảng cho đại chúng nghe về tính cách vô thường của cuộc        sống
 khi thấy họ quá ư sầu não.
Triệu tập Tăng chúng quanh thành        Vesàli, Đức 
Phật nói lời cuối cùng và đưa mắt nhìn thành phố này lần        chót và 
đi về Kusinara. Trên đường đi, Ngài dừng lại nhiều nơi để hóa        độ 
kẻ hữu duyên. Ở Pava, người thợ rèn Cunda (Thuần Đà) cúng dường        
cho Đức Phật món sùkasamaddhara (nấm rừng), Ngài hoan hỷ nhận lãnh và 
dặn        kỹ nên chôn phần còn lại. Sau bữa cơm này, Đức Phật bị kiết 
lỵ rất        nặng. Với tinh thần bình thản, Ngài nói những lời chúc 
phúc để trấn        an và thanh minh cho Cunda và từ giã đi về Kusinara 
cách Pava 6 dặm (khoảng 9        cây số), nơi có dòng tiểu vương của bộ 
tộc Malla ở.
Đến nơi, giữa hai tàng cây sala,        Ngài nằm tĩnh
 lặng, nghiêng mình về hông mặt, chân trái để trên chân        phải duỗi
 thẳng, đầu quay về hướng Bắc.
Cây sala trổ bông trái mùa như để        cúng dường 
cho ngày đại tang. Mọi người mọi cách biểu hiện sự kính        lễ. Đức 
Phật lại dạy cách tỏ lòng kính ngưỡng và tôn sùng Đức Thế        Tôn là 
hãy tuân thủ giáo pháp, tinh tấn tu hành, phẩm hạnh trang nghiêm.
Kế đó, Ngài đề cập đến 4 Thánh        tích (nơi Đản 
sanh, Thành đạo, Chuyển pháp luân lần đầu tiên và nơi        Nhập diệt) 
liên quan đến đời sống của một Đức Phật, nếu với lòng        thành kính 
chiêm bái sẽ được nhiều lợi lạc.
Sau khi độ cho tu sĩ ngoại đạo        Subhadda và đây
 là người đệ tử sau cùng, Đức Thế Tôn bảo Ananda báo        cho dân 
chúng Malla biết rằng Ngài sẽ nhập Niết bàn vào canh cuối đêm        
nay, cũng như căn dặn Ananda không nên bận tâm với việc phải làm vẻ     
   vang long trọng đối với nhục thể của Như Lai, mà hãy tận lực tinh tấn
        để chu toàn hạnh phúc cho chính mình.
Được tin qua hàng nước mắt ràn        rụa của Tôn giả
 Ananda, dân chúng Malla thành Kusinara tấp nập kéo về        quây quần 
quỳ bên Đức Phật, cùng rừng cây sala chứng kiến giây phút        thiêng 
liêng duy nhất trong đời và nghe những lời dạy sau rốt của Đức        
Bổn Sư: "Này Ananda, đừng nghĩ rằng chỉ còn lại giáo pháp cao cả        
mà không còn bậc Đạo sư nữa. Pháp và luật mà ta đã dạy bảo, đó là       
 Đạo sư của các ông. Này Ananda, Tăng chúng nếu muốn, có thể bỏ các giới
        luật phụ và nhỏ, sau khi Như Lai nhập diệt. Có một nghi ngờ, 
thắc mắc,        phân vân gì liên quan đến Phật Pháp Tăng, đến đạo, đến 
phương pháp,        hãy hỏi đi, đừng để sau này hối tiếc". Đức Thế Tôn 
nói như vậy        ba lần, nhưng cả đại chúng đều im lặng.
Và, Đức Đạo Sư đã khuyến tấn        các đệ tử câu 
cuối cùng: "Hỡi các đệ tử, Như Lai khuyên các con,        các pháp hữu 
vi đều vô thường, hãy tận lực, liên tục chuyên cần".        Đó là di 
huấn tối hậu của Đức Thế Tôn.
Thế rồi Đức Bổn Sư yên lặng        nhập và xuất Sơ 
thiền. Lần lượt Nhị thiền v.v... đến nhập và xuất        Diệt thọ tưởng 
định. Ngài lại nhập và xuất Phi tưởng phi phi tưởng        xứ định và 
lần lượt ngược trở lại đến nhập và xuất Sơ thiền.        Và khi nhập và 
xuất lần thứ hai ra khỏi Tứ thiền, Đức Thế Tôn đã        nhập Vô dư Niết
 bàn.
Kim thân của Đức Phật được        đưa đến 
Makutabandhana để cho mọi người chiêm bái, và sau 7 ngày được        cử 
hành lễ trà tỳ dưới sự tổ chức của ngài Maha Kassapa. Xá lợi        được
 chia làm 8 phần theo thỏa thuận của cuộc họp do ngài Maha Kassapa,     
   đại vương Ajàtasattu và ông Dona đứng chủ trì và phân phối cho 8 quốc
        gia lớn nhỏ cùng dân tộc Malla, xây tháp tôn thờ. Ông Dona xin 
được thờ        phụng cái bình đựng xá lợi khi vừa thiêu xong. Những 
người Maurya ở        Pipphalirana vì đến chậm, xin được lấy tro tàn của
 giàn hỏa để dựng        tháp mà lễ bái.
Hình dáng của Như Lai khuất dạng        từ đây. Con 
đường hoằng pháp lợi sanh của Đức Phật kéo dài hơn 45        năm. Từ lúc
 thành đạo cho đến lúc nhập Niết bàn, Ngài không ngừng phục        vụ 
chúng sanh bằng hai lối đời sống của chính bản thân và những lời        
dạy. Suốt cả con đường, đôi lúc đi một mình, lắm khi cùng đại chúng,    
    từ làng mạc, rừng núi đến thung lũng đồi cao, ở xã thôn nghèo khổ 
đến        phố tứ phồn hoa, Ngài đều có mặt và đưa tất cả trở về với 
giáo        pháp chơn như, giáo pháp của từ bi, tự do, dân chủ, bình 
đẳng, giải        thoát.
C/- Kết        luận
Với sự hy sinh cao cả, lòng từ bi        rộng lớn và 
một ý chí độ sanh dũng mãnh của Đức Phật, ta có thể        tán dương hay
 quan niệm Ngài là vĩ nhân trên tất cả những vĩ nhân, siêu        nhân 
đứng trên mọi siêu nhân. Nhưng lời tán dương, việc làm tôn vinh,        
kính ngưỡng Đức Phật đúng đắn nhất, ý nghĩa nhất phải là như lời        
dặn dò của Bổn Sư trước lúc Ngài ly trần: "Này Ananda, không nên        
tôn trọng, đảnh lễ, tán thán, quý mến Như Lai theo cách như vậy. Bất cứ 
       Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di nào sống đúng với chánh 
pháp,        tự mình ứng xử hợp với đạo, có hành động chân chánh, thì 
chính người        đó, tôn trọng, đảnh lễ, tán thán, quý mến Như Lai một
 cách tốt đẹp        nhất"./.
Chú        thích
(1) Thất thánh tài: Gia tài của bậc        Thánh, gồm
 có: 1- Tín (đức tin, lòng chánh tín); 2- Giới (giới luật); 3-        
Tàm (lòng tự hổ thẹn); 4- Quí (biết xấu hổ với người); 5- Đa văn        
(nghe nhiều, biết rộng); 6- Trí tuệ; 7- Xả ly (sự từ bỏ tham, sân, si).
(2) Tứ niệm xứ: 4 đối tượng        thiền quán, gồm: 1- Thân thể; 2- Cảm thọ; 3- Tâm thức; 4- Pháp.