Nhìn chung hành động của chúng ta diễn 
tiến theo hai khuynh hướng: hoặc cao thượng hoặc thấp hèn do sự thúc đẩy
 của thiện tâm hay ác tâm. Đáng tiếc con người thường theo xu hướng của 
ác nghiệp. Làm sao mà biết? Việc chúng ta còn là một chúng sanh đã nói 
lên rằng: cuộc sống này phước mỏng nghiệp dày, khổ nhiều hơn vui vì bởi 
tạo ác nghiệp mà ra.
Đa phần hành động của con người chịu sự 
thúc đẩy của tâm lý, cho nên những tâm lý phiền nào như tham lam và sân 
hận gây tàn hại cho chúng ta rất nhiều. Với tự thân sân biến con người 
từ hiền thành dữ, tốt thành xấu. Với xã hội, sân hận làm tiêu tan nhà 
cửa, con cái chia lìa… Tính tham lam, ích kỷ lại làm con người biến chất
 có thể trở thành thành phần bất hảo trong xã hội. Với người tu hành, 
tâm sân và tâm tham dục rất nguy hại cho con đường tu tập.
Để đối trị sân nhuế và tham dục, Đức Phật thực hành hạnh tu nhẫn nhục. Đây
 là một đề tài quen thuộc với đời sống của người xuất gia. Người viết 
trình bày nội dung đề tài qua nhận thức và sự học tập của mình nơi ghế 
nhà trường trong phạm vi tam nghiệp thân, khẩu, ý qua một số bài giáo lý
 căn bản và tham khảo kinh Trung Bộ, bản dịch của Hoà thượng Minh Châu.
I. ĐỊNH NGHĨA
Nhẫn nhục tiếng Pali là Khantì (Sanskrit
 là Ksanti), dịch Hán âm: Sằn-đề.Namtruyền dịch là nhẫn nại, nghĩa là 
đức tính chịu đựng những nghịch cảnh não lòng và chấp nhận những điều 
đau khổ do hoàn cảnh bên ngoài đem đến. Bắc truyền dịch là an nhẫn, 
nghĩa là tính chịu đựng những cảnh trái ý nghịch lòng một cách vui vẻ mà
 không oán trách và không khởi niệm oán thù.

II. TẠI SAO TA PHẢI NHẪN? 
Cổ đức nói: “Nhẫn: nhất tự thiên kim” nghĩa là một chữ đáng giá ngàn vàng bởi những giá trị cao đẹp của nó.
Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”,
 nghĩa là một niệm sân khởi lên muôn ngàn nghiệp chướng theo đó mà mở 
ra. Khi sân hận nổi lên, con người không còn hành động theo lý trí mà 
chỉ hành động cho theo cơn giận, cho nên sẵn sàng làm bất cứ điều ác gì.
 Để rồi tạo ác gieo nhơn, chịu những quả báo đau khổ sau này. Cho nên là
 người con Phật chúng ta phải tu tập hạnh nhẫn nhục.
III. VAI TRÒ VÀ VỊ TRÍ 
Nhẫn nhục là một pháp tu quan trọng 
trong giáo lý nhà Phật. Nếu như các pháp tu khác như bố thí, trì giới, 
hành thiền… hành giả có thể thực hiện bất cứ lúc nào mình muốn, bất cứ 
lúc đối tượng nào mình chọn thì pháp hạnh nhẫn nhục chỉ có thể tạo được 
khi tiếp xúc với đối tượng làm cho tâm sân hận và tham dục khởi lên mà 
thôi.
Nhẫn nhục nằm trong 6 pháp Ba-la-mật mà 
các bậc Bồ-tát tu hành hoá độ quần sanh theo tư tưởng Phật giáo Bắc 
truyền. Còn theo Namtruyền nhẫn nại nằm trong mười pháp Ba-la-mật mà chư
 Bồ-tát cần phải thực hành để thành Đức Phật Toàn Giác, Đức Phật Độc 
Giác hay bậc Thánh Thanh Văn Giác tuỳ theo sở nguyện của mình.[1]
IV. ỨNG DỤNG PHÁP TU NHẪN NHỤC
Nhẫn nhục là sự luyện tâm. Tâm ấy là tâm
 phiền não nguy hại cho hành giả, nhẫn nhục là sự tu tâm ở 2 góc độ: đối
 trị tâm sân hận và kiềm chế sự tham dục.
1. Đối trị sân hận 
a. Thân nhẫn: 
Là sự kiểm soát tâm sân hận khi thân xúc
 chạm với sự đau đớn do sự vật hay người khác gây ra cho mình. Đây là 
một việc khó làm vì ai cũng yêu thân thể. Hơn nữa, khi thân thể đau đớn,
 tâm sẽ mất ổn định. Khi đó bản năng sinh tồn sẽ thúc đẩy tâm lý hành 
động bảo vệ thân thể nên dễ bị sa vào sân hận.
Có một câu chuyện tiền thân Phật ghi lại hạnh nhẫn nhục của một tiên nhân tu thân nhẫn rất mạnh mẽ. Kinh Hiền Ngu q.2, viết rằng: vào thuở xưa, tại nước Ba-la-nại, dưới thời vua Ca-lê, có vị tiên tên Sằn-đề-ba-lê [2]
 cùng 500 đệ tử ở ẩn trong rừng tu hạnh nhẫn nhục. Một hôm vua dẫn tuỳ 
tùng du ngoạn, đoàn cung nữ thấy tiên nhơn liền khởi tâm cung kính đến 
lễ bái cúng dường. Nhà vua ghen tức bèn chặt hết chân tay và xẻo tai, 
xẻo mũi vị tiên nhơn ấy. Sằn-đề tiên nhơn không oán giận vua mà lại 
nguyện sau này thành Phật sẽ chặt đứt tam độc (tham sân si) của nhà vua.
 Về sau hiện kiếp, vị tiên nhơn là đức Phật còn nhà vua trở thành đệ tử 
của Ngài.
Tích truyện trên cho ta một bài học 
rằng: thân thể là vô thường, sẽ bị bào mòn theo tháng năm của thời gian 
xoay chuyển. Cho nên để giữ đạo tâm, người tu sẵn sàng nhẫn nhục khi bị 
xâm phạm thân thể.
Trích kinh Trung Bộ I, bài kinh “Ví dụ cái cưa”:
Chư Tỷ-kheo, như những kẻ 
đạo tặc hạ liệt, dùng cưa hai lưỡi mà cưa tay, cưa chân; dầu vậy, nếu 
một ai ở đây khởi ý nhiễm loạn, người ấy do vậy không phải là người thực
 hành giáo pháp của Ta. Ở đây, chư Tỷ-kheo các ông phải học tập như sau:
 “Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm; chúng ta sẽ không 
thốt ra những lời ác ngữ; chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ 
bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với 
tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng
 khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, 
không sân”. Chư Tỷ-kheo, các ông cần phải học tập như vậy.
Và này chư Tỷ-kheo, nếu các ông luôn
 luôn suy tư lời dạy ví dụ cái cưa này, thì này các Tỷ-kheo, các Ông có 
thấy loại ngôn ngữ nào, dầu tế nhị hay thô bạo mà các Ông không kham 
nhẫn được chăng?
- Bạch Thế Tôn, không.
- Chư Tỷ-kheo, do vậy, hãy luôn luôn suy tư lời dạy ví như cái cưa này, và các Ông sẽ được hạnh phúc an lạc lâu ngày [3].
b. Khẩu nhẫn:
Khẩu nhẫn là sự tu tập khẩu nghiệp không
 để thốt ra những lời ác khẩu, nhục mạ hay mắng chửi, than vãn kêu ca 
khi bị người mắng chửi nhục mạ hay làm tổn thương chúng ta.
Con người ở đời rất đề cao danh dự cho 
nên rất dễ tự ái khi danh dự bị người ta chà đạp. Chính vì vậy, khi nghe
 người khen tâm hớn hở mừng, khi bị người chê lòng giận tái tê. Con 
người dễ mất lòng nhau vì cái miệng và dễ tạo nghiệp cũng do cái miệng. 
Cổ đức nói: “Bệnh tùng khẩu nhập, hoạ tùng khẩu xuất”, nghĩa là: bệnh do miệng ăn vào, hoạ do miệng nói ra. Cho nên chúng ta phải cẩn thận trong lời ăn tiếng nói.
Một điều dễ thấy là ta sống ở đời dù có 
hoàn mỹ như thế nào vẫn bị người ta chê cả. Ngay đức Phật của chúng ta 
cũng vậy. Nhưng điều khác biệt là thái độ của ta và Ngài khác nhau. Đức 
Phật luôn an nhiên tự tại, còn ta sân hận nổi lên. Ngày xưa, khi hoá độ ở
 một xứ nọ, hàng ngoại đạo đã mắng chửi đức Phật suốt 7 ngày 7 đêm mà 
Ngài không chút dao động nào. Một câu chuyện khác nói về hạnh khẩu nhẫn 
của đức Phật: chuyện Ching-cha giả có mang hại Phật. Ngài vẫn im lặng 
trước sự việc đó, vua trời xuống phá tan âm mưu của Ching-cha.
Hai câu chuyện trên Đức Phật dạy ta một 
bài học đạo lý rằng hạnh tu khẩu nhẫn rất cao đẹp. Chúng ta phải biết 
hạn chế những lời nói ác để tránh khẩu nghiệp. Thái độ im lặng an nhẫn 
của ta là sự chiến thắng ác nghiệp nơi khẩu.
Ai chửi ta thì ta giả điếc
Đợi cho người hết giận ta khuyên
Chữ nhẫn hoà ta để đầu tiên
Thì đâu có mang câu hờn oán [4].
Thế thì chúng ta phải tu khẩu nhẫn như 
thế nào? Cổ đức đã dạy tu hạnh tu khẩu nhẫn bằng bài một kệ ngôn rất 
hay. Bài kệ này vừa tự mình tu khẩu nghiệp vừa làm an ổn cuộc sống giữa 
mình và mọi người xung quanh.
Người khôn ít nói nghe nhiều
Lựa lời đối đáp lựa điều hỏi han
Trước người hiền ngỏ khôn ngoan
Nhường trên một bước rộng đàng dễ đi
Việc người chớ nói làm chi
Việc mình mình biết vậy thì mới khôn.
c. Ý nhẫn:
Ý nhẫn là sự tu tâm không để tâm khởi 
lên sân hận. Trái lại, việc tu ý nhẫn còn biết mở rộng từ tâm tha thứ và
 tìm cầu cho bao sự kết oán đều hoá giải. Ý nhẫn là sự tác ý rất khéo 
léo của tâm. Chúng ta nên biết rằng thân và khẩu luôn chịu sự chi phối 
của ý nhưng do sự tác động bên ngoài vào thân và khẩu làm ý thức cũng 
sinh khởi theo. Cho nên khi bị nghịch cảnh tâm rất dễ khởi lên sân hận.
Tu ý nhẫn là huấn luyện tâm trước sự 
khen hay chê của người. Dù bị chê, dù được khen ta cũng phải giữ tâm 
không dao động. Câu chuyện của trưởng lão Phát Di Gia trong kinh Pháp Cú là một bài học lớn cho việc tu ý nhẫn.
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại Kỳ Viên tự, nước Xá Vệ, trong một kỳ giảng pháp, có đề cập đến trưởng lão Phát Di Gia.
Thuở ấy, có trưởng lão Phát Di Gia tu 
hành rất tinh tấn, đắc được quả vị A-la-hán. Trưởng lão người thấp lùn, 
thường bị các Tỳ-kheo trẻ tuổi gán cho biệt hiệu là Lakundaka, có nghĩa 
là người lùn tịt. Tâm tánh trưởng lão rất hiền hòa, mỗi khi bị trêu 
chọc, trưởng lão chẳng hề tức giận, ngay cả khi các người trẻ tuổi theo 
véo tai, bóp mũi hay vò đầu, trưởng lão chẳng hề cau có, mà vẫn giữ vẻ 
mặt bình thản, khi có kẻ trêu chọc hay có lời thiếu lễ độ với mình.
Khi đức Phật nghe nói đến sự nhẫn nhục, 
hiền hòa của trưởng lão Phát Di Gia, Ngài bảo các chư Tăng rằng: “Đối 
với một bậc A-la-hán, chẳng bao giờ mất sự bình tĩnh trong lòng, không 
hề có ý định nói nặng lời, không hề có ác ý với ai cả. Vị ấy cũng như 
tảng đá kiên cố, không bị bão tố lay động được. Vị ấy lúc nào cũng điềm 
nhiên khi bị mắng mỏ, trêu chọc cũng như khi được khen tặng. Rồi Đức 
Phật đọc bài kệ:
Như tảng đá kiên cố
Không gió nào lay động
Cũng vậy giữa khen chê
Người trí không dao động. [5]
Bài học đạo lý được rút ra trong đoạn 
Phật ngôn trên là người tu phải giữ tâm bình thản an nhiên trước mọi 
cảnh ngộ. Tha thứ để tâm xả bỏ cơn giận không cho sinh khởi.
Đạo pháp thường hay dung với hoà
Xét người cho tột xét thân ta
Nếu ta rõ phận vui lòng thứ
Ta thứ được người người thứ ta. [6]
2. Kiềm chế tâm tham dục
Ngài Rahula trong quyển Phật đã dạy những gì nhận
 định rằng: bản chất khát ái là sự tìm tòi hưởng thụ và thoả mãn của 
chúng sanh. Do sự thúc đẩy của hưởng thụ cho nên con người chìm đắm 
trong ngũ dục để rồi gánh chịu luân hồi sanh tử. Tu hạnh nhẫn nhục ngoài
 đối trị sân hận, chúng ta còn hướng về việc kiềm chế sự hưởng thụ. Càng
 hưởng thụ càng dễ tu tập theo lời Phật dạy.
Với hàng xuất gia, Phật dạy lối tu trung
 đạo không khổ hạnh ép xác vì điều đó làm thân thể tiều tuỵ. Không dung 
dưỡng thụ hưởng vì như vậy làm thân thể sung mãn, chỉ có lối tu trung 
đạo mới tiến tu đạo nghiệp.
Với hàng tại gia có bài học thiểu dục 
tri túc – ít muốn biết đủ. Người không biết đủ dù hưởng phước báu cõi 
trời vẫn không thoả mãn, người biết đủ dù nghèo tâm vẫn an vui. Người tu
 cần kiềm chế như tấm gương của các bậc Thánh ngày xưa.
Có một Đại đức tên Lomasanagathora ngồi 
tham thiền trên núi nóng giữa mùa khô hạn, chư đệ tử thấy vậy bạch Ngài 
vào trong mát. Ngài dạy: vì sợ nóng nên mới ngồi đây. Rồi Ngài quan sát 
cái nóng cùng cực nơi địa ngục cao gấp hàng tỷ lần cái nóng mặt trời, 
nhờ vậy nên Ngài đắc quả A-la-hán.
Một Đại đức khác trên đường khất thực 
thiếu cơm ăn 3 ngày, sự đói khát làm Ngài đau khổ, nhưng Ngài vẫn nhẫn 
nại tu tập, Ngài tác ý khi còn luân hồi không biết bao lần bị đói khổ 
trong kiếp ngạ quỷ hơn bây giờ vô lượng vô biên. Cho nên nhờ nhẫn nại tu
 tập Ngài đắc A-la-hán. [7]
Do đó, chúng ta phải kiềm chế lòng tham 
dục, khắc phục sự thỏa mãn trong cơn khát ái mà nhẫn nại tu hành như các
 bậc Thánh ngày xưa.
Tóm lại, trong quyển 38 pháp hạnh phúc của Ngài Mahathongkham có viết, Phật dạy rằng: “Chúng sanh nào thương kính Như Lai nên hành hạnh nhẫn nại.”[8]
Nhẫn nại là sức mạnh của nội tâm, một 
loại năng lực vững vàng thúc đẩy hành giả tiến tu đạo nghiệp. Trong tiến
 trình tu học, chỉ có sức mạnh nội tâm mới thực hiện được hai điều: Một 
làm chủ tâm ý. Tâm dễ buông xuôi theo hoàn cảnh bên ngoài, khi hoàn cảnh
 tác động sẽ làm ta sân hận hay tham đắm, tu pháp nhẫn nhục để đối trị 
cơn sân hận và kiềm chế cơn dục vọng gìn giữ đạo tâm. Hai là tinh tấn tu
 hành. Khi có pháp nhẫn nại, chúng ta có được nền tảng vững chắc không 
chút biếng lười mà siêng năng tinh tấn tu tập. Nhờ có tinh tấn ta mới 
vượt qua bao thử thách chông gai mà đi trọn con đường giác ngộ.
Như vậy, để làm chủ được tâm ý và sự tinh tấn hành trì giáo pháp ta phải tu hành nhẫn nhục.
TK. Minh Điệp

[1]  Sư Hộ Pháp, Nhẫn nại, ( TP. HCM, Nxb. TP. HCM, 2003), tr. 8.
 
[2] Tích đạo sĩ Khantivàdì, bộ Jàtaka.
 
[3] HT. Minh Châu dịch, Ví dụ cái cưa, Trung bộ I, ( TP. HCM, VNCPHVN, 1992),  tr. 292.
 
[4] Sấm giảng thi văn của Đức Huỳnh Giáo Chủ, Phật giáo Hoà Hảo.
 
[5] Bản dịch của HT. Minh Châu.
 
[6] Sấm giảng thi văn của Đức Huỳnh Giáo Chủ, Phật giáo Hoà Hảo.
 
[7] Maha Thongkham Medivongs, 38 pháp hạnh phúc, (Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2008), 311.
 
[8] Sđd.