LỜI GIỚI THIỆU
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, 
Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giới 
mà gần đây luôn được rất nhiều người tôn kính. Sự tôn kính này không hẳn chỉ vì 
ngài là người đã nhận được giải Nobel
hòa bình do những nỗ lực không mệt mỏi trong việc tìm kiếm một tiếng nói chung 
cho nền hòa bình thế giới, mà còn là vì những bài thuyết giảng rộng rãi của ngài 
luôn đề cập đến những chủ đề mà hầu hết mọi con người của thời hiện đại đều phải 
quan tâm đến. 
Trong số người ngưỡng mộ ngài qua những bài thuyết 
giảng, không chỉ giới hạn có những tín đồ Phật giáo, mà còn có sự hiện diện của 
hầu hết những tôn giáo khác, bởi những gì ngài giảng dạy không đơn thuần là 
những trích dẫn từ kinh điển mà thực sự là những kinh nghiệm tu chứng mà bản 
thân ngài đã có được ngay trong cuộc sống của thời hiện đại này. Vì thế, bất cứ 
ai cũng đều có thể nhận được lợi ích lớn lao từ những bài giảng của ngài.
Mặt khác, không chỉ những ai quan tâm đến các vấn 
đề về tinh thần hoặc tâm linh mới cần đến lời dạy của ngài. Điều thú vị đã xảy 
ra trong hơn một thập kỷ qua là có rất nhiều nhà khoa học phương Tây đã nghiên 
cứu và phát hiện những điểm tương đồng giữa tri thức khoa học của phương Tây với 
trí tuệ trực giác của phương Đông mà ngài là một trong những điển hình rõ nét 
nhất. Các nhà khoa học đã vô cùng ngạc nhiên khi những kết quả nghiên cứu của họ 
đã cho thấy việc tu tập thiền định chẳng hạn, không chỉ mang ý nghĩa rèn luyện 
tâm linh, mà thực sự luôn mang lại những lợi ích lớn lao hết sức cụ thể cho sự 
phát triển thể chất, duy trì sức khỏe của con người. Họ cũng hết sức bất ngờ khi 
nhận ra rằng những chỉ dẫn cho sự tu tập của một tu sĩ không chỉ là hoàn toàn 
dựa vào đức tin, mà thực sự là dựa trên những cơ sở khoa học vô cùng chính xác 
và hợp lý, nhờ đó luôn tạo ra được những điều kiện tối ưu để sự hành trì có thể 
đạt đến kết quả khả quan nhất. 
Lạ thay, tất cả những điều đó không có được nhờ vào 
những kết quả nghiên cứu, phân tích luôn cần đến sự hỗ trợ bởi những máy móc, 
thiết bị tối tân của phương Tây, mà chỉ là hoàn toàn dựa vào năng lực trí tuệ 
trực giác, vào sự thực chứng qua kinh nghiệm cá nhân, đã được đức Phật khám phá 
và chỉ bày cho nhân loại từ hơn 25 thế kỷ trước đây, và cho đến nay thì đức 
Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 chính là một trong những người tiếp nối được truyền 
thống cực kỳ quý giá đó. Những bài thuyết giảng của ngài trong nhiều năm qua đã 
thực sự mang lại những hiểu biết chân chánh và thiết thực về Phật giáo cho nhân 
loại thời hiện đại, đặc biệt là trong đó có rất nhiều người phương Tây trước đây 
chỉ quen tiếp nhận mọi tri thức thông qua cánh cửa khoa học.
Mặc dù là người Tây Tạng, nhưng hầu hết những bài 
thuyết giảng của ngài đều được thực hiện bằng tiếng Anh, bởi lẽ đơn giản đây là 
ngôn ngữ hiện đang phổ biến nhất trên toàn thế giới. Tuy nhiên, tiếng Anh mà 
ngài sử dụng lại không hoàn toàn giống với thứ tiếng Anh mà ta thường gặp ở các 
học giả phương Tây, mà là một thứ tiếng Anh rất đặc biệt, rất dễ hiểu nhưng vẫn 
không kém phần sâu sắc. Những đặc điểm nổi bật trong ngôn ngữ mà ngài thường 
dùng khi thuyết giảng là đơn giản, gãy gọn, trong sáng nhưng vẫn không kém phần 
hàm súc và phong phú. Chính nhờ có những đặc điểm này, những vấn đề mà ngài đề 
cập đến luôn dễ dàng được đông đảo thính giả tiếp nhận, và người nghe luôn có 
một cảm giác gần gũi, cảm thông và chia sẻ như thể đang được trao đổi về những 
vấn đề của chính bản thân mình.
Đại đức Thích Nhuận Châu là người đã từng chuyển 
dịch khá nhiều bài giảng của đức Đạt-lai Lạt-ma 
thứ 14 từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Tập sách mỏng này nằm trong số những công 
trình phiên dịch gần đây nhất của thầy, với nội dung đề cập đến những vấn đề 
nhạy cảm và có khoảng cách khá lớn giữa hai nền văn hóa Đông Tây. Mặc dù vậy, 
điều hết sức thú vị là chính qua những đối thoại được ghi lại trong tập sách này 
giữa đức Đạt-lai Lạt-ma và một học giả phương Tây, 
Mike Austin, độc giả có thể dễ dàng nhận ra là những khoảng cách lớn ấy 
đã được thu hẹp đến mức gần như tương đồng và bổ sung cho nhau. 
Tôi rất vui mừng được giới thiệu cùng quý vị độc 
giả tập sách này – được trình bày song ngữ Anh-Việt – như một cầu nối giữa tri 
thức khoa học phương Tây và trí tuệ trực giác phương Đông, điều mà tôi vẫn luôn 
cho là một trong những thành tựu đáng kể nhất của nhân loại vào đầu thiên niên 
kỷ này.
Mặc dù nội dung tập sách có phần hơi nặng về lý 
luận, có lẽ vì người chủ động đặt vấn đề là một học giả phương Tây, nhưng tôi 
tin là những ai quan tâm đến sự rèn luyện tinh thần và một đời sống tâm linh vẫn 
có thể tìm thấy trong tập sách này rất nhiều chỉ dẫn vô cùng hữu ích. Mặt khác, 
hy vọng là cách trình bày đối chiếu song ngữ Anh-Việt ở đây sẽ rất có lợi cho 
những ai đang muốn làm quen với cách diễn đạt những khái niệm Phật giáo bằng Anh 
ngữ.
Trong suốt quá trình hình thành tập sách, chúng tôi 
đã cố gắng hết sức để có thể hạn chế tối đa mọi sai sót. Tuy nhiên, do sự giới 
hạn về năng lực và trình độ, có lẽ cũng không sao tránh được ít nhiều khiếm 
khuyết. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý từ quý vị độc giả gần xa, cũng như 
luôn hy vọng sẽ được các bậc cao minh trưởng thượng mở lòng chỉ giáo.
Trân trọng,
NGUYỄN MINH TIẾN
 
 
Pháp giới vũ 
trụ: Tâm và Vật 
 
 
MIKE AUSTIN: 
Ngài nhìn thấy sự phát triển của nhân loại đến mức độ nào? Chẳng hạn, nếu ngài 
xem toàn thể nhân loại chỉ như là một người, thì ngài cho rằng chúng ta đang ở 
trong thời kỳ trẻ thơ, niên thiếu hay thời kỳ trưởng thành? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Nói chung theo giáo lý Phật giáo, có khi thế giới 
trở nên tốt hơn, có khi trở nên tệ hơn. Nay nếu các bạn nói về thời gian của một 
kiếp,[1] thì kỉ nguyên của chúng ta vẫn còn là trẻ thơ; 
nhưng nếu đối với một thời gian nhỏ hơn, thì kỉ nguyên của chúng ta đã già. Tôi 
sẽ giải thích điều này. 
Theo A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận,[2] 1 đại kiếp gồm 80 trung kiếp, gồm 4 nhóm (kiếp), 
mỗi nhóm (kiếp) gồm 20 trung kiếp. Thứ nhất là Kiếp không (aeons of vacuity). 
Kiếp không là sự tàn hoại của thế giới hệ sau cùng. Sau đó là 20 trung kiếp của 
Kiếp thành (aeons of formation), tức là thời kỳ hình thành của thế giới. Kế đến 
là 20 trung kiếp của Kiếp trụ (aeons of abiding). Tiếp theo là 20 trung kiếp của 
Kiếp hoại (aeons of destruction). Bây giờ chúng ta đang ở trong Kiếp trụ. Trong 
khoảng 20 trung kiếp của Kiếp trụ, chúng ta đang ở trong thời kỳ đầu của kiếp 
giảm. Thế nên khi kiếp này giảm, thì sau đó có 18 lần tăng và 18 lần giảm. Rồi 
lần thứ 20 sẽ tiếp tục tăng. Nay chúng ta đang ở trong lần giảm thứ nhất, đến 
mức mà mạng sống trung bình của con người chừng 100 tuổi. Trong ý nghĩa thời kỳ 
đầu của kiếp giảm, thì chúng ta đã qua khá lâu rồi, bởi vậy nên gọi là già. 
Nhưng với nghĩa của 20 Kiếp trụ, thì chúng ta chỉ mới khởi đầu. 
 MIKE AUSTIN: 
Có phải quan điểm tổng quát này chỉ xuất phát từ kinh điển? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đúng vậy.
 MIKE AUSTIN: 
Phải chăng đó là bằng chứng duy nhất có thể trích dẫn cho điển hình này về không 
gian và thời gian?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tôi cho là vậy. Có lẽ hoàn toàn chỉ từ kinh điển. 
Nhưng nếu bỏ qua toàn thể quan niệm về Kiếp này, thì sẽ rất khó cho chúng ta khi 
giải thích ý nghĩa khoa học của những tinh tú gần nhất. Hoàn toàn rất khó. 
MIKE AUSTIN: 
Nó ở đâu? Giống như cái gì?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Những gì là nguyên nhân đích thực của nó, v.v... 
Điều tôi sẽ trình bày là một thế giới hệ trong cả nghìn tỉ[3] thế giới, như sự giải thích về một dải thiên hà.
MIKE AUSTIN: 
Vâng! Thế xin được đi ngay vào vấn đề. Quan niệm của Phật giáo như thế nào về 
khởi nguyên vũ trụ? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Về mặt vật thể, đó chính là nguồn năng 
lượng–energy. Còn về mặt các sinh vật sống trong đó, động lực tạo ra các sinh 
vật ấy chính là hành vi mà chúng đã tích lũy, là nguyên nhân khiến họ được sinh 
ra. 
MIKE AUSTIN: 
Hãy xem xét vấn đề đầu tiên là vật chất. Vật chất vốn vô tri. Cái gì là động 
lực, qua đó hiện tượng vũ trụ biểu hiện?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Về các thành tố cấu thành vũ trụ,[4] yếu tố ban đầu là gió. Yếu tố này là nền tảng của 
hư không. Rồi gió chuyển động, và theo đó là hơi nóng, rồi có hơi nước, rồi chất 
rắn– solidity–đó chính là địa đại. Nếu bạn cần giải thích yếu tố gió ban sơ 
tương tục từ cái gì, thì có lẽ nó có từ thời kỳ kiếp không–period of vacuity–của 
thế giới hệ trước đó. Trong ý nghĩa nào đó, thì yếu tố gió (phong đại) là vô 
cùng vô hạn. Nếu các bạn muốn đề cập về một thế giới trong một thế giới hệ[5] gồm cả tỉ thế giới, thì các bạn có thể nói về khởi 
nguyên của nó. Còn ngược lại, nói chung là không thể. 
MIKE AUSTIN: 
Nhưng trước tiên, cái gì là nguyên nhân trực tiếp của hư không; và sau đó, cái 
gì nguyên nhân trực tiếp của gió (phong đại) hay luồng năng lượng (energy) mà 
ngài đang đề cập?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Nếu muốn nói trên bề mặt, như tôi đã trình bày, 
đó là thời kỳ kiếp không của thế giới hệ trước đó. 
MIKE AUSTIN: 
Luồng năng lượng (energy) đó tự nhiên sinh khởi từ trong chân không? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Điều ấy rất tự nhiên, chẳng có gì là bịa đặt, 
nhưng đằng sau nó chính là nghiệp lực. 
MIKE AUSTIN: 
Cái gì là nghiệp lực?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tất nhiên, cần phải giải thích về nghiệp. Nghiệp 
có nghĩa là sự tạo tác (action). Chẳng hạn, như nay tôi đang nói, đó là sự tạo 
tác từ lời nói (khẩu nghiệp–verbal act). Khi tôi nhấc tay lên, đo là sự tạo tác 
của thân (thân nghiệp–physical act). Còn có sự tạo tác từ tâm ý (ý nghiệp–mental 
actions), đó là trường hợp những tạo tác chẳng thể hiện từ thân hay miệng. Do 
những hành vi tạo tác này mà dẫn đến những kết quả tức thời hay lâu xa. Như do 
tinh thần cuộc nói chuyện của chúng ta bây giờ, nên có bầu không khí thân thiện 
đang phát ra nơi đây, và đó là kết quả tức thì. Tuy nhiên, cuộc nói chuyện của 
chúng ta cũng tạo nên một tiềm năng, hay gây một dấu ấn trong sự tương tục của 
tâm thức. Thông qua những dấu ấn này là những nghiệp thiện, nghiệp ác và nghiệp 
trung tính–(vô kí) neutral actions– đi theo ngay khi hành vi tạo tác chấm dứt. 
Trong đó có trường hợp mãn nghiệp–destruction–là 
khi các hành vi tạo tác dừng chỉ hẳn–và điều này vẫn còn lưu lại trong tâm thức 
tương tục. Trạng thái dừng chỉ nấy là một trường hợp phủ định xác định–affirming 
negative– một sự vắng bặt bao hàm tính xác định. Đó là một năng lực tiềm ẩn, 
không chỉ dừng lại các hành vi tạo tác, mà còn có năng lực dẫn sinh kết quả 
trong tương lai. Trạng thái dừng chỉ này có khả năng tự phục hoạt từng sát-na 
cho đến khi kết quả được hình thành. Khi hội đủ những nhân duyên thích hợp, nó 
sẽ chín muồi, tức tạo ra quả. Chẳng có gì khác nhau dù trải qua thời gian dài 
hay ngắn. Thậm chí có thể hằng tỉ kiếp. Nếu con người không nương nhờ vào một 
phương tiện để hoá giải tiềm lực này–như sám hối và phát nguyện không làm những 
việc ác–thì những lực tiềm ẩn ấy vẫn còn. 
MIKE AUSTIN: 
Nó lưu giữ ở đâu?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Trong sự tương tục của tâm thức. Có hai cơ cở để 
được giải thích cho dấu ấn này. Một là tính tương tục. Hai là tính nhất thời. 
Cái nhất thời chính là tâm thức tương tục, và tính tương tục của tâm thức vốn 
chỉ là cái ‘tôi’, cái bản ngã tương đối của con người. 
MIKE AUSTIN: 
Chưa cần phải đi sâu vào chi tiết như vậy, mà nên trở lại với chủ đề ban đầu. Sự 
khác biệt cơ bản nhất giữa tâm và vật là gì? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vật tức là sắc thể; còn tâm chính là sự chiếu 
tri–illumination and knowing.
MIKE AUSTIN: 
Cái gì đã tạo nên tâm này?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Về mặt căn nguyên của tâm, có một nguyên nhân 
chắc thực, cũng như hợp thể nhân duyên–năng duyên–và sở duyên–observed object 
condition. Sở duyên, đối tượng được nhận biết–có thể là sắc, là một vật thể; 
nhưng một vật thể, một sự kiện hữu hình thì không thể nào là nguyên nhân chủ yếu 
của tâm. Phải là cái gì khác, đó chính là sự chiếu tri. Chẳng hạn, khi tôi nhìn 
thấy máy ghi âm, nhãn thức của tôi đã có sẵn trong nó đối tượng sở duyên, là 
chiếc máy ghi âm mà nó quán sát. 
Năng duyên là cái khiến cho nhãn thức biết được 
hình dáng và màu sắc–là năng lực thấy của mắt, nhưng nguyên nhân chủ yếu (còn 
gọi là điều kiện tiên quyết– preceding condition) thì đã phát huy thành một thực 
thể khác, đó là sự chiếu tri, nó phải là một khoảnh khắc trước của sự chiếu tri 
ấy, một sát-na trước đó của thức tâm. 
MIKE AUSTIN: 
Thể chiếu tri ấy, cái gì là căn nguyên hình thành ra nó? Phải chăng cũng do ngẫu 
nhiên? Căn nguyên của nó xuất phát từ đâu?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Và do thế nên chẳng có sự khởi đầu của tâm. 
MIKE AUSTIN: 
Không có sự khởi đầu của tâm...
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Cũng không có sự kết thúc. Với thức tâm riêng 
biệt nào đó, thì có khởi đầu và kết thúc, nhưng riêng yếu tố chiếu tri này, thì 
chẳng có khởi đầu và kết thúc. Nay thì, với một số dạng tâm thức, có trường hợp 
không có sự khởi đầu nhưng có chấm dứt. Chẳng hạn, như phiền não. Khi các bạn 
chuyển hoá rốt ráo các tâm hành sinh phiền não như tật đố, thì sự tương tục của 
tâm thức ấy sẽ đến chỗ chấm dứt. Bản chất của tâm như thế chính là điểm này, vốn 
chỉ là chiếu tri. Đúng không? Chẳng có gì khác hơn.
MIKE AUSTIN: 
Điều ấy đã thuyết phục ngài để cho rằng đó chính là bản tánh? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có bốn dạng khi khảo sát về hiện tượng. Một là 
nhờ vào sự tương thuộc–dependence, như nhìn thấy khói là nhờ thấy (biết có) lửa. 
Dạng khác là để ý đến tác dụng của hiện tượng. Dạng thứ ba là nhờ vào suy luận; 
qua chứng minh đúng hoặc sai. Dạng sau cùng là sự nhận thức đúng như thực bản 
chất cuả hiện tượng.[6] Chẳng hạn, việc chúng ta mong muốn có hạnh phúc là 
điều tự nhiên. Chẳng có gì khác cần phải khám phá thêm. Bây giờ về mặt nhân quả 
toàn diện, thì, hoặc là các bạn phải chấp nhận có một vị thần sáng tạo, hoặc 
công nhận vũ trụ là không có sự khởi đầu. Chẳng còn cách nào khác; chẳng còn khả 
năng nào nữa. 
 
 BẢN CHẤT CỦA 
TÂM 
 
MIKE AUSTIN: 
Trong cùng một lúc mà chúng ta đã đề cập khá nhiều vấn đề, và bây giờ chắc ngài 
rất mệt khi trời đã về chiều. Phải không? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tôi thấy mình rất khoẻ. 
MIKE AUSTIN: 
Ngài vẫn khỏe? Thật đáng quý. Xin ngài có thể trình bày chi tiết kinh nghiệm của 
riêng ngài để mọi người có thể nhận ra những vấn đề trừu tượng này. Chẳng hạn, 
ngài đã dành suốt đời mình để tham thiền và tu tập các công hạnh. Kinh nghiệm cá 
nhân của ngài về bản tâm là gì? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Thể tính, bản chất của tâm, đó chính là chiếu 
tri. Thông qua sự nắm bắt hình ảnh của đối tượng, nó phát huy sự ghi nhận và 
biết được vật thể. Tâm thức nhận biết vật thể nhờ phát huy trong nó hình ảnh 
này, như sự phản chiếu (của gương). Bây giờ, đối với các trường phái Phật giáo 
khác, có sự tranh luận là các đối tượng ấy có tồn tại bên ngoài tâm hay không? 
Nói cách khác, các vật thể có hiện hữu như là một thực thể riêng biệt đối với 
tâm thức nhận biết chúng hay không?
MIKE AUSTIN: 
Có đúng như vậy chăng?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có người cho là như vậy, có người cho rằng không.
MIKE AUSTIN: 
Hãy trở lại với vấn đề đầu tiên. Một mặt, chúng ta có tính chiếu tri, được gọi 
là tâm, vốn không có chỗ bắt đầu; và mặt khác, chúng ta có thể chất (sắc). Điều 
gì là sự liên hệ có tính phổ quát, mang tính vũ trụ giữa tâm và vật?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có một lớp hư không mang hai tính chất sáng và 
tối. Hư không này như là một khoảng đang trình hiện trước mắt các bạn. Có một 
lớp hư không khác vốn chỉ là rỗng không (negative); không có những ngăn ngại nào 
khi tiếp xúc. Dạng hư không thứ hai là thường hằng, và do vậy nên bất biến 
(unchanging). Tuy nhiên, còn có yếu tố nhân duyên cho dạng hư không thứ nhất. Do 
vậy các bạn phải thừa nhận tính tương tục của nó như là không có sự khởi đầu, vì 
nó phải sinh khởi từ sự hội đủ các nhân duyên hoặc từ các nhân duyên tương tự. 
Dạng hư không mà tôi đã đề cập ở trước–được xem như là nền tảng của phong đại–và 
yếu tố này, vốn vô thường nhưng tương tục từ vô thuỷ, có lẽ là giống nhau. Tôi 
không thể giải thích điều này một cách toàn triệt. Tôi thấy rằng không thể nào 
hoặc rất khó để nói rằng tâm thức sinh khởi từ vật hoặc vật thể sinh khởi từ tâm 
thức. 
MIKE AUSTIN: 
Tại sao? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Dù nó ở trong sự tuỳ thuộc vào việc tâm có được 
đào luyện hay không được đào luyện, thì hành vi ấy cũng được thi tác để có kết 
quả trong thế giới vật chất, khi các bạn nói về sự tương tục–tính tương tục trọn 
vẹn của những thực thể kia–thì khó có thể nói là nó được phát sinh từ tâm. Cũng 
vậy, nếu thức phát sinh từ vật thể, thì đến lúc không có vật thể–như trong thời 
kỳ kiếp không –aeons of vacuity, vì sau thời kỳ kiếp hoại (destruction) của thế 
giới hệ thì vốn không có chúng sinh. Đây sẽ là một nghịch lí. 
MIKE AUSTIN: 
Để tôi thử cố gắng tạo một cầu nối giữa phương pháp tư duy của Tây phương với 
vấn đề này. Cách đây 26 năm, giới khoa học đã phát minh ra một thành phần hoá 
học, là chất DNA,[7] nơi phát sinh mọi sự sống trên hành tinh này. Bằng 
cách kết hợp lại bốn hoá chất căn bản trong một độ dài và biến thiên vô hạn, DNA 
sẽ tạo ra các sinh thể. Điều này có gợi lên trong ngài điều gì chăng? Nếu có, 
ngài thấy được trong đó điều gì có ý nghĩa? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Ông đang đề cập đến những phần tử cực vi? Đúng 
không? Những phần tử này rất nhỏ, rất vi tế, không thể nhìn trực tiếp qua mắt 
thường được. Phải không? Nhưng ngày nay, nhờ vào khoa học, người ta có thể khám 
phá ra rất nhiều điều vi tế, và đó là những thể tính nền tảng của vật chất. 
Chúng rất nhỏ nhiệm, biến hoại trong từng sát-na, nhưng chúng không thể nào 
tìm thấy (xác định–found) được.
MIKE AUSTIN: 
Nhưng chính sự sống–sự sống là gì trong phạm trù hoá học? Còn nếu là tâm, ý 
nghĩa sự sống là gì trong phạm trù của tâm? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có lẽ DNA chẳng phải là tâm. Chẳng phải là mọi 
vật có sự chuyển dịch đều phải có tâm thức. Cây cỏ có hình dáng và sự lay động, 
các chất tử bên trong tảng đá cũng có sự chuyển dịch. 
MIKE AUSTIN: 
Nhưng chính trong DNA rất rõ ràng là có một tổ chức nào đó rất thông minh để kết 
hợp lại các
gen (genes) 
này–những mã số hoá học (coded chemicals). Có tâm thức nào đó đã hoạt động trong 
DNA. 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Nếu DNA cần thiết cho tâm thức, thì tâm thức trẻ 
con lẽ ra phải phát xuất từ cha mẹ chúng, và đó chẳng phải là cách được xem là 
chân xác. Điều ấy không đúng. 
MIKE AUSTIN: 
Thế thì, hãy đề cập về mặt sinh thể cá nhân, nhưng trong chiều hướng lớn hơn. Có 
một hành tinh vô tri vô giác, trong đó, hình thành hoá chất này và bắt đầu tạo 
sinh ra nhiều sự sống dưới nhiều dạng khác nhau. Chúng tiếp tục sinh trưởng và 
biến dịch qua hằng triệu năm. Trí thông minh nào sắp đặt quy trình tiến hoá này? 
Cái gì vận hành ở đây? Có phải là cộng nghiệp– collective karma–không?
 CỘNG 
NGHIỆP–BIỆT NGHIỆP 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Ồ! Vâng.
MIKE AUSTIN: 
Xin ngài nói thêm về điều này?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có cộng nghiệp và biệt nghiệp.
MIKE AUSTIN: 
Vâng. 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Cộng nghiệp chi phối thế giới này không phải chỉ 
trên loài người, mà trong từng mỗi loại chúng sinh, từng loài côn trùng, và như 
thế, trên toàn cả pháp giới. Nếu có bốn người đặt tay lên chiếc bàn này, thì cái 
bàn trở thành một vật được dùng chung bởi bốn người. Như vậy, hành vi này khiến 
cho họ tạo chung một nghiệp, và trong tương lai họ sẽ nhận lấy kết quả của việc 
ấy. Bây giờ những việc được tạo tác với tính cách cá nhân, nó được dựa trên–cũng 
như phát sinh từ–biệt nghiệp của riêng họ. 
MIKE AUSTIN: 
Nói cách khác, ngài cho rằng DNA chính là sản phẩm của biệt nghiệp lẫn cộng 
nghiệp của mọi chúng sinh trong pháp giới, thông qua nghiệp ấy mà họ tự hình 
thành nên chính mình?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tôi không có điều kiện quán sát chi tiết về DNA 
để nghiên cứu. Nó là vật thể. Nó là đối tượng được nhận biết bởi nhãn thức. Ông 
có thấy được chúng qua kính hiển vi không? 
MIKE AUSTIN: 
Tất nhiên có. Có 64 nhiễm sắc thể (chromosomes) được cấu thành trong một con 
người. Trong mỗi nhiễm sắc thể, nó được dàn trải thành hằng ngàn hợp thể gọi là gen (gene)
 ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đó là vật chất. Khi nó là vật chất, thì nó có 
nhiều phần và nhiều chiều hướng. Chẳng có cách nào để nó trở nên bất khả phân 
(partless). Nếu nó là bất khả phân, nếu mọi thứ đều bất khả phân, thì sẽ chẳng 
có một sắc thể nào cả. Sắc thể chẳng thể nào hiện hữu. Có thể nó không có tâm 
thức, nhưng được xem như nền tảng của tâm thức. 
MIKE AUSTIN: 
Nếu nó không có tâm thức, thì cái gì là nguyên nhân tạo thành trong một phương 
thức chính xác để tâm thức biểu hiện? Nếu ngài cho rằng vốn tâm thức không tạo 
thành vật thể, thế thì chính xác điều gì đã phát sinh ra cái DNA vô tri vô giác 
này, để trở lại, nó biểu hiện thành tâm thức? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Điều này tương tự như năng lực nhận biết của mắt. 
Đó là vật chất, chứ không phải là tâm thức, nhưng nó được xem như là nền tảng 
của tâm thức và nhờ làm như vậy nên nó chính là căn nguyên của tâm thức. Chẳng 
hạn, bộ não, nó không phải là tâm thức, nhưng nó được xem như nền tảng của tâm 
thức. Một khi có cái gì là tâm thức, thì nhất thiết cái đó chẳng phải là hình 
dáng hay màu sắc. Tuy nhiên, như tôi đã đề cập trước đây, nhờ định lực đẳng trì,[8] mà các bạn có thể thành tựu hoặc tạo nên được thứ 
lớp cao hơn trong tầm mức sắc thể. Điều này có hai dạng: môt là có thể quán sát 
bằng các giác quan, và một là chỉ có thể cảm nhận qua tâm. Có những sắc thể vi 
tế chỉ được cảm nhận bằng tâm. Như có lửa và nước được phát sinh từ năng lực của 
định đẳng trì, nhưng đó không phải là là nước và lửa thực sự, vì chúng vốn chỉ 
phát sinh từ định lực. Nhưng chúng cũng biểu hiện ra tác dụng của nó là đốt cháy 
hay làm ướt các vật khác. 
MIKE AUSTIN: 
Lửa mà ngài đang nói đến ở đâu?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Nó phát xuất từ người có khả năng tu tập về các 
thứ ấy: lửa, nước, gió, v.v... Điều này tương tự như bức ảnh mà người ta chụp 
được bằng ấn tượng tinh thần (mental image) mà chúng ta thấy được hôm qua. Điều 
này cũng tương tự như vậy. 
MIKE AUSTIN: 
Thế nên ở trong một mức độ đào luyện tâm linh nào đó, thì vật chất có thể được 
thể hiện ra?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vâng. 
MIKE AUSTIN: 
Với mục đích gì? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Còn tuỳ theo động cơ cuả mỗi người. 
MIKE AUSTIN: 
Tôi hiểu rồi. Tôi muốn hỏi ngài vài vấn đề có liên quan đến chuyện này. Khi ngài 
còn nhỏ, ngài rất thích về khoa học. Sao vậy?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tại sao? Đó là ước nguyện của tôi. Đúng vậy. 
Chúng ta hãy xem. Tôi xem nhiều tranh ảnh, từ đó tôi đâm ra thích thú. Tôi có 
tính thích tìm hiểu từ hồi nhỏ. Và khi chúng ta quay trở lại, chú tâm tìm hiểu 
cái ‘tại sao,’ thì đó là điều khiến các bạn quan tâm đến khoa học. 
MIKE AUSTIN: 
Quán sát căn nguyên của các vạn vật cũng tương tự như vậy hay sao?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Nếu các bạn quán sát căn nguyên, thì đó không 
phải là khoa học. Khoa học đến sau các căn nguyên. 
MIKE AUSTIN: 
Một nửa cuộc đời ngài hiện hữu trên thế gian này, khi khoa học kĩ thuật đi vào 
trung kì của thế kỷ thứ 20. Sự phát triển, khám phá (khoa học kĩ thuật) nào đã 
khiến ngài có ấn tượng hay quan tâm lớn nhất? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Ngày nay, một lần nữa, đó là máy quét (scanning 
machine). Đó là điều rất đặc biệt. Khi thân thể được quét qua, nó ghi nhận từng 
centimetre trong thân thể theo lớp cắt ngang (cross-section). Thật là kì diệu. 
 MIKE AUSTIN: 
Tại sao điều ấy khiến ngài quan tâm?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vì nó rất có lợi ích.. 
MIKE AUSTIN: 
Vì lí do đó, có phải đó là niềm thích thú nhất đối với ngài?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vì không cần phải giải phẩu thân người mới có 
được những ảnh chụp ấy. 
MIKE AUSTIN: 
Một số các máy móc này đã gây nên một số rắc rối cũng như giúp ích cho con 
người. Ngài nghĩ cách tốt nhất để vận dụng khoa học lĩ thuật là gì?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Điều ấy còn tuỳ thuộc vào động cơ. Sự điều tiết 
và lòng từ. Điều ấy sẽ tốt hơn cho tất cả. 
MIKE AUSTIN: 
Ngài thấy như thế nào về năng lượng hạt nhân? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tốt. Tôi nghĩ đó là điều tốt.
MIKE AUSTIN: 
Tại sao? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vì nó có ích. Nếu các bạn sử dụng một cách chính 
đáng. Tôi nghĩ như vậy
MIKE AUSTIN: 
Ngài có nghĩ rằng những lợi ích khả hữu ấy sẽ làm tăng thêm các nguy cơ?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Mọi thứ đều là Duyên khởi. Nhưng các bạn thấy, dù 
năng lượng hạt nhân là hoàn toàn lợi ích, nhưng dĩ nhiên cũng có cái không. 
Nhưng chúng ta sẽ gặp phải một vấn đề nan giải. Các bạn không thể xác định rõ 
năng lượng hạt nhân là xấu về mặt cơ bản của chính nó; nhưng nếu bạn cho là như 
vậy, thì chính bạn là người cực đoan. Nếu các bạn có một cực đoan nào, điều ấy 
cũng tai hại. 
MIKE AUSTIN: 
Ngài nghĩ gì về những tiềm ẩn sâu rộng, mang tính tâm linh của năng lượng hạt 
nhân? Chúng ta đã rút ra được những năng lượng từ nguyên tử (atom), và với lực 
căn bản nhất này–hoàn toàn tuyệt đối–chúng ta có thể huỷ diệt cả thế giới. Ngài 
có thấy điều gì mỉa mai trong đó không?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Một lần nữa, nó lại tuỳ thuộc vào kĩ năng hiểu 
biết của các bạn về việc sử dụng năng lượng hạt nhân, Chẳng hạn, về việc ăn 
kiêng, nếu các bạn không biết cách ăn cho đúng đắn, các bạn có thể tự giết mình. 
MIKE AUSTIN: 
Trở lại vấn đề chúng ta đang thảo luận từ trước; sự tồn tại và sự tiến hoá của 
vũ trụ. Khoa học phương Tây đã chỉ ra rằng đời sống trên hành tinh này được phát 
triển từ một dạng đơn giản đến cái tinh vi phức tạp cao hơn. Ngài có thể đối 
chiếu dòng tiến hoá này với quan niệm của đạo Phật về luân hồi sinh tử, trong 
đó, các loài hữu tình đã di trú (migrate) trong một dạng cơ bản xoay vần 
(essentially circular pattern) thông qua cùng một sinh thể gốc (basic life 
forms) không?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Theo những kinh điển mà tôi đã đề cập trước đây, 
tôi cũng tin vào cả hai dạng, dạng cao cấp được phát triển từ dạng thoái hoá dần 
dần, và một dạng nguyên thuỷ được tiến hoá. Mặt khác, tôi không hiểu. Khó có thể 
giải thích được. Chúng ta phải khảo sát vấn đề này xa hơn. Tôi thấy rằng các 
thực thể khác nhau có thể hiện hữu cùng nhau. Những điều khoa học đã tìm ra bản 
chất tồn tại của sự tiến hoá có thể là đúng; và cùng lúc, một dạng tiến hoá khác 
cũng hiện hữu. Điều ấy thật khó nói. 
MIKE AUSTIN: 
Có chăng một thời điểm đặc biệt, một mốc cố định hoặc thời kỳ được ghi trong 
kinh điển, khi các loài hữu tình, không gian, thời gian, hoàn toàn không có mọi 
sự hiện hữu? 
 ĐẠT-LAI LẠT-MA: Theo kinh điển đạo Phật, điều ấy được giải thích 
như sau. Nếu các bạn đào sâu xuống lòng đất 1000 yards, rồi đào rộng ra chung 
quanh 1000 yards vuông, rồi lấp đầy khoảng không này bằng tóc, cứ cách nhau inch 
đặt một sợi tóc. Rồi nếu cứ 100 năm thì lấy đi một sợi tóc, đến khi lấy hết số 
tóc ấy, đó là khoảng thời gian một phần 80 của một kiếp.
MIKE AUSTIN: 
Kinh có nói sẽ trải qua bao nhiêu đại kiếp không?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Ồ! Vô lượng, đại kiếp chẳng có ngằn mé. Sự hiện 
hữu của dạng kiếp hoại của trái đất bắt đầu diễn ra, và kiếp hoại lại diễn ra 
khắp nơi trong vũ trụ. 
MIKE AUSTIN: 
Thế nên không có thời điểm nhất định khi nào thì vòng luân hồi sinh tử sẽ dừng 
lại hay sao? Chẳng phải ngài đã nói rằng luân hồi sinh tử không có điểm khởi 
đầu, nhưng có điểm chấm dứt đó sao? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Nói riêng, thì nó có thể chấm dứt. Nói chung, thì 
nó chẳng có khởi đầu, chẳng có kết thúc. Nếu các bạn khảo sát riêng về một con 
người, có hiện hữu một khả tính có thể đem lại sự chấm dứt nguyên nhân khiến cho 
người ấy chịu luân hồi sinh tử. Do vậy, nó có điểm kết thúc. Nhưng bây giờ, khi 
chúng ta đề cập về luân hồi nói chung, thì rất khó nói vì nó không có ngằn mé. 
Thế nên đối với cái gì không có giới hạn, làm sao ta có thể đặt ý niệm thời gian 
vào đó? Đó là vấn đề. 
MIKE AUSTIN: 
Vấn đề sau cùng–các dạng sinh vật chúng ta đang thấy chung quanh được phân làm 
hai loại. Một là thực vật, hai là động vật. Thực vật sinh tồn qua trung gian môi 
trường mà chúng hiện hữu, như mặt trời, đất và không khí. Thế nhưng, động vật 
thì phải kiếm thức ăn từ bên ngoài nó và thường bị người khác giết hại. Ngài 
thấy có ý nghĩa gì, và có ý nghĩa tâm linh gì khi thực tế là các sự sống đó đều 
tồn tại trong cả hai cách? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: (cười lớn). 
Điều ấy thật khó. Theo tinh thần đạo Phật, còn có sự khác nhau dựa trên nền tảng 
là loài đó có phải là một loại chúng sinh hay không? 
 MIKE AUSTIN: 
Thực vật có phải là chúng sinh hay không? Nó có tâm thức hay không? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Nói chung thực vật thì không. Nhưng nay lại có 
một phức tạp khác. Cái gì thực sự là thực vật và cái gì là động vật? Điều ấy rất 
khó. Các loài thực vật quanh chúng ta có lẽ là thực vật thực sự. Trong trường 
hợp đó, chúng ta sẽ xem chúng như là loài có tình thức. Tuy nhiên còn có những 
loài thực vật khác, nhưng không nói là chúng có tình thức hay không. Ngay cả khi 
các bạn dùng một thân người, khi phân tích những tế bào ra thì tôi không chắc là 
tế bào nào có tình thức và tế bào nào không. Theo kinh điển đạo Phật, có 80.000 
tế bào có tình thức, tức 80.000 chúng sinh trong thân thể con người, bao gồm cả 
giun lãi. Tôi nghĩ là thân thể con người khó có thể chứa đựng được 80.000 loài 
trùng sán có thể xem được bằng mắt thường. Nhưng như tôi đã đề cập, mọi thứ đều 
xảy ra (moves) mà nhất thiết không cần phải có tình thức. 
 
LUÂN HỒI VÀ 
CHÚNG SINH
Cyclic Existence And Sentient Beings
 
MIKE AUSTIN: 
Ngài nghĩ như thế nào khi đạo Phật lan toả đến Mỹ quốc và phương Tây? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tôn giáo vốn chẳng có ranh giới. Có một số người 
Mỹ quan tâm đến điều ấy, và nếu đạo Phật có ích cho họ, thì đó là đủ rồi. 
MIKE AUSTIN: 
Nói chung, không chỉ là sự quan tâm đến Phật pháp, mà còn có sự kiện phục hưng 
đời sống tâm linh trong quốc gia này trong 15 năm qua. Ngài cho rằng yếu tố gì 
đã tạo nên điều này?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có thể là nhờ vào sự phát triển có khuynh hướng 
thiên về vật chất, và văn hoá Mĩ quốc vốn là một tổng hợp của nhiều nền văn hoá. 
Do vậy, nước Mĩ vốn rất cởi mở với trong nhiều vấn đề. Phải có nhiều yếu tố, và 
có nhiều sự cạnh tranh trong công việc v.v... Thế nên, con người đi đến chỗ giáp 
mặt với nhiều khó khăn, và bên ngoài số đó lại quan tâm đến những điều nghiêm 
túc hơn. Họ đi xa hơn, như các bạn đã thấy.
MIKE AUSTIN: 
Từ khó khăn, dẫn đến sự quan tâm sự phát triển tâm linh? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Nếu tâm loạn động, chỉ cần quán tưởng về một điểm 
hay một đề tài trong một thời gian ngắn thì sẽ có được sự an tĩnh. Từ ban sơ, 
con người đã trở nên bị thu hút vào loại hình sinh hoạt này vì nó giống như một 
bữa tiệc hay lễ hội tinh thần. Đó không chỉ là đạo Phật, mà hoàn toàn là tôn 
giáo Đông phương.
MIKE AUSTIN: 
Ngài nghĩ gì về việc thờ cúng trong lễ nghi tôn giáo? Phải chăng con người đánh 
mất cá tính riêng cuả mình trước một đấng quyền năng vô hình trong tôn giáo? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Để trả lời về điều này, tôi sẽ trình bày về cách 
chọn một bậc Đạo sư trong đạo Phật. Giáo lý mà Đức Phật chỉ dạy không phải là để 
trình bày kiến thức cho người khác thấy, mà để giúp cho họ. Do vậy, bất luận tư 
tưởng riêng hay nhận thức riêng của bậc ấy như thế nào, họ giảng dạy giáo lý 
phải phù hợp với khuynh hướng, sự quan tâm, v.v... của người nghe. Những ai học 
theo lời Phật dạy, để xác định được ý nghĩa tối hậu, họ phải có sự phân biệt rõ 
giữa những điều gì có thể giải thích được rõ ràng[9] (liễu nghĩa– interpretable)–khi kinh điển ấy được 
giảng nói cho một căn cơ chuyên biệt–và sự thật rốt ráo hoặc chân lí hiển nhiên[10]–incontrovertibly true. Nếu trong sự phân định cái 
gì là có thể giải thích được và cái gì là sự thật rốt ráo, người ta phải dựa vào 
kinh điển để chuẩn nhận kinh điển ấy, và cần đến những kinh điển khác nữa để 
chuẩn xác kinh điển trước đó. Điều ấy sẽ là vô cùng. Do vậy, một khi người ta đã 
khẳng định rằng có sự phân định này, thì cần thiết phải y cứ vào một lập luận để 
thực thi. Mà việc ấy không bị tổn hại bởi lập luận có tính xác định. Do trường 
hợp này, Đức Phật đề ra Tứ y–Bốn phương pháp y cứ (four reliances).
Y cứ vào pháp, không y cứ vào người (Rely not on 
the person, but on the doctrine).
 Về giáo lý, 
Y nghĩa bất y ngữ (rely not on the words, but on the meaning).
Về ý nghĩa Y liễu nghĩa, không y cứ vào bất liễu 
nghĩa (rely not on the interpretable meaning, but on the definitive meaning).
 Về bất liễu 
nghĩa, Y trí bất y thức (rely not on comprehension by an ordinary state of 
consciousness, but on understanding by an exalted wisdom consciousness)
 Do đây, giáo 
lý Tứ y dạy chúng ta không nên xác định bằng cách xem xét về người đã truyền dạy 
giáo lý ấy, mà phải qua sự thẩm định chính giáo lý ấy. 
Trong Kinh, Đức Phật dạy rằng “ Đừng nên tin lời 
Như Lai bởi do lòng kính trọng, mà phải qua sự phân tích giáo lý ấy như người 
thợ kim hoàn phân tích chất vàng, bằng cách cán vụn, nung chảy, mài giũa và đánh 
bóng nó.” 
Người ta không chỉ xác định rằng Đức Phật là cội 
nguồn nương tựa đáng tin cậy bởi sự kiện là thân tướng Đức Phật được trang 
nghiêm bằng những tướng tốt chính và phụ, mà do vì giáo lý của ngài là để thành 
tựu các cảnh giới cao và sự chí thiện chắc thực. Vì giáo lý dành cho các cảnh 
giới cao dính líu đến vật thể, có liên quan đến từng hiện tượng ẩn mật và vượt 
qua những phương thức lập luận thông thường, nên cần thiết phải tham cứu đạo 
Phật để thành tựu sự chí thiện.
Một cách cụ thể, đây là 
những giáo lý về nhận thức trí huệ tánh không (realization of the wisdom of 
emptiness). Thông qua sự xác định rằng giáo lý ấy là đúng đắn và hiển nhiên 
(incontrovertible), người ta sẽ đi đến kết luận rằng giáo lý về các cảnh giới 
cao là chân xác. Như ngài Pháp Xứng[11] đã nói, bậc Đạo sư phải là người khéo léo trong 
cách tiếp xử, cái gì thừa nhận và cái gì loại trừ. Người ta không thể nào chấp 
nhận một bậc thầy chỉ vì người ấy thi thố phép lạ, có khả năng thấu thị, nhìn 
thấy những vật từ xa hoặc có khả năng thể hiện những năng lực vật lý nào đó. Dù 
người ấy có nhìn thấy xa được bao nhiêu, cũng chẳng quan trọng. Có vấn đề gì nếu 
người thầy ấy biết được kỹ thuật để đạt được sự hạnh phúc–như ngài Nguyệt Xứng[12] nói. Nếu muốn có khả năng thấy được vật thể từ xa, 
thì người ta nên quy y con chim kên kên (Đây là ý của bài kệ căn bản trong Lượng thích luận.)[13]
 Bây giờ, 
toàn bộ đây là để trình bày rằng một bậc thầy phải có đầy đủ tư cách để giải 
thích cái gì được thừa nhận. Do vậy Đức Phật đề ra rất chi tiết trong tạng Luật, 
tạng Kinh và trong các tông phái Mật thừa về phẩm hạnh cho nhiều tầng bậc khác 
nhau của các bậc đạo sư. 
Rất quan trọng trước khi 
công nhận một vị Đạo sư rồi phân tích về họ, để xem họ có những phẩm hạnh gì. 
Đặc biệt quan trọng là trong pháp tu trong Mật thừa. Trong một bài 
tantra, nói rằng vì sẽ có sự nguy hiểm rất lớn cho cả thầy lẫn trò, nên 
nhất thiết phải tìm hiểu kĩ lưỡng trước đó, thậm chí cần phải đến 12 năm mới có 
được kết luận. 
Bây giờ, nếu đã có đủ niềm tin trong đạo Phật, thì 
Đức Phật không cần phải đề ra những chi tiết để chọn một bậc Đạo sư. Trong pháp 
tu Du-già tantra (tantra-guru yoga) thuộc Mật thừa, thì điều này rất quan trọng. 
Nhưng dù nó quan trọng, cũng không thể tiến hành trong nền tảng của niềm tin mù 
quáng. Trong Giới kinh có nói rằng nếu một vị Lạt-ma giảng dạy ngược với giáo 
lý, thì người ta nên có ý kiến với vị ấy. 
Một bài kinh trích trong tác phẩm Bồ-đề đạo thứ 
đệ của Tông-khách-ba[14] nói rằng người ta nên nương tựa vào vị Lạt-ma bằng 
cách tán thành những gì hợp với giáo lý và phản đối những gì không phù hợp. Đây 
là một bản kinh trong Bồ-tát tạng (Bodhisattva Pitaka). 
Còn về Man-tra thừa, trong tác phẩm
Sự sư pháp ngũ thập tụng của Bồ-tát Mã Minh[15] nói rằng nếu một vị Lạt-ma dạy điều gì mà người ta 
không chấp nhận, thì người ấy nên dùng lời nói để giải thích cho vị Lạt-ma ấy 
biết lí do tại sao mình không chấp nhận. Điều này giải thích cách mà người ta 
nương tựa vào một vị Lạt-ma trong cả ba thừa[16] cuả đạo Phật. Các bạn không nên rơi vào cực đoan 
nào cả. Vì trong tất cả mọi công phu tu tập, sau khi xác định được chân lí bằng 
lí luận, mọi người nên có một niềm tin, nhưng đó chẳng phải là niềm tin mù quáng 
dẫn các bạn đến hố sâu. Các bạn nên quán sát kỹ những gì bậc thầy nói, chấp nhận 
những gì phù hợp và khước từ những gì không phù hợp. Đây là thủ tục nói chung 
trong đạo Phật, và tôi tán thành điều này. Tôi làm theo điều ấy. 
 MIKE AUSTIN: 
Làm sao để quy y hoặc là với Đức Phật hoặc là với bậc Đạo sư trừ phi chính ngài 
đã thân chứng được giá trị đích thực trong giáo lý của họ? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Nếu nói về sự quy y với sự nhận thức đúng đắn, 
thì nhất thiết phải xác định được niết-bàn là gì trước khi quy y. Để hiểu chân 
xác về cả hai vấn đề, niết-bàn thực có và có thể chứng nhập niết-bàn, thì điều 
thiết yếu là phải trực nhận được tánh không (nyat). Đây có thể là cách thức dành 
cho người nắm bắt sự kiện và những người gạt bỏ hết mọi sự kiện. Tuy nhiên, đối 
với những dạng người khác, chủ yếu tu tập theo niềm tin, thì có nhiều cách thức 
khác nhau để họ phát triển đức tin. Thế nên, dù người ta không có được nhận thức 
đúng đắn về niết-bàn và khả năng thực chứng niết-bàn, ít nhất họ cũng có một giả 
định chính xác liên quan đến điều ấy. 
 MIKE AUSTIN: 
Có mâu thuẫn chăng khi nói rằng các hành giả chân thực (followers of fact) phải 
đi trọn con đường, trước khi quy y với chính con đường mà họ đã đi qua? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Hiện thực của niết-bàn và sự khẳng định rằng 
niết-bàn có thực là hai việc hoàn toàn khác nhau. Chẳng hạn, thực sự đến nơi này 
và biết chắc nơi này có thực là hoàn toàn khác nhau. 
MIKE AUSTIN: 
Phần lớn con người trên thế gian đều không nhiệt thành trong việc đào luyện tâm 
linh. Điều quan trọng nhất và phương diện sâu thẳm nhất trong đời sống của họ là 
mối tương quan giữa họ và những người khác–đặc biệt là các thành viên trong gia 
đình. Ngài cho rằng đến mức độ nào thì những mối liên hệ căn bản này được xem 
như là một phương tiện cho sự phát triển của nhân loại? Có tác động phần nào vào 
các mối quan hệ của chính mình để giúp cho sự tiến hoá của con người chăng? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tôi không rõ. Một dạng tình yêu mà chúng ta có 
được chính là loại tình yêu chân thực. Tình yêu này có thể trải rộng hướng đến 
sự phát triển tâm linh. Nó có thể được dùng như là nền tảng cho sự phát triển 
thành lòng từ vô hạn (infinite kindness). Thế nên từ quan điểm đó, đúng vậy, đời 
sống gia đình hay sự ràng buộc của gia đình có thể là có lợi. Về bản chất cuả 
con người, chúng ta đã có được một loại tâm từ bi. Tách rời điều này là không 
hợp lí. Bây giờ cùng một lúc, lòng tốt thông thường này xuất hiện trong bản chất 
con người lại ảnh hưởng rất mạnh bởi sự chấp trước. Đến lúc đó thì chẳng có gì 
để làm trên phương diện tinh thần, và thực tế, con người hành xử như một sự bế 
tắc. 
MIKE AUSTIN: 
Tình yêu, nếu dựa trên sự chấp trước?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đúng vậy. 
MIKE AUSTIN: 
Xin ngài nói về tình yêu chân chính? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có nhiều nguyên do để có tình yêu như thế này. 
Khi bạn có lòng trắc ẩn hoặc thương xót một người rất nghèo, thì lúc ấy, bạn thể 
hiện cảm xúc vì người ấy nghèo. Tình thương ấy căn cứ vào nguyên đo đúng đắn. 
Nay tình yêu dành cho vợ con hoặc bạn bè của mình, đó là tình yêu dựa trên một 
đối tượng vướng mắc. Một khi đối tượng ấy thay đổi, thì tình yêu sẽ không còn 
tồn tại nữa. Dạng tình yêu kia không dựa vào đối tượng vướng mắc, mà là tình 
thương–như trong trường hợp này–vì người ấy bị khổ do nghèo. Miễn có ai nghèo 
khổ, thì tình thương trong mình liền trỗi dậy. 
 MIKE AUSTIN: 
Có phải ngài cho rằng tình yêu chân thực chỉ được phát huy từ niềm thông cảm. 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vâng! Tương tự như vậy. Tình yêu chân thực sẽ 
không thay đổi theo cảm xúc cuả bạn về phía đối tượng. Tình yêu gắn liền với 
chấp trước sẽ dao động rất lớn tuỳ theo cách nhìn của các bạn với đối tượng.
MIKE AUSTIN: 
Đạo Phật cho rằng xúc cảm (emotions) là chướng ngại(obscurations)–tâm sở phiền 
não–mental defilements–là điều nên giải trừ. Ở phương Tây, dù vậy, tiêu chuẩn 
chính cho cuộc sống trọn vẹn chính là làm thế nào để được trải nghiệm từng cảm 
xúc sâu kín nhất. Nếu sự đam mê phải được giải trừ, thì người ta sẽ cảm thấy 
cuộc sống con người là vô vị, nhạt nhẽo. Mặt khác, người ta thường ca tụng những 
ai có kinh nghiệm phong phú trong cuộc đời. Hai quan niệm này có mâu thuẫn nhau 
không?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Điều này có hơi phức tạp. Có những cảm xúc đến 
với các bạn do chấp trước của mình. Tương tự, những cảm giác mạnh có thể thâm 
nhập vào trong công phu thực hành giáo pháp hoặc (tâm kính ngưỡng–attitude) đối 
với bậc Đạo sư (guru) của quý vị. Dù những cảm xúc này có vẻ như là tốt, nhưng 
nếu các bạn thực hành đúng đắn, đến giai đoạn cuối cùng anh ta phải loại bỏ 
những cảm xúc này. 
MIKE AUSTIN: 
Thế là thực sự không có cách nào để dung hoà hao quan niệm này? Điều gì sẽ xảy 
ra khi bạn hữu hay cha mẹ của họ qua đời, ngài không thấy rằng họ cảm thấy buồn 
là điều đúng đắn hay sao?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đối với cái chết cuả cha mẹ hay của người khác, 
đúng là có lí do để buồn. Tôi chẳng thấy sai trái gì trong điều này cả. Nếu có 
điều gì bất hạnh xảy đến cho cha mẹ mình hoặc xảy đến cho người mà mình yêu quý 
nhất, thì đó là lí do đúng đắn để buồn. Nhưng ở đây, nếu có người bị mất cha mẹ 
và buồn, tôi nghĩ là cái buồn của họ nên y cứ vào nguyên do thích đáng–không hơn 
không kém. Tôi nghĩ rằng điều ấy là hợp lí. Không bớt đi ý nghĩa là anh ta cảm 
thấy rất buồn. Chẳng hơn. Anh ta chấp nhận điều ấy. Nay các bạn đã hiểu, nỗi 
buồn dựa trên chính sự chấp trước là không hay. Vì rằng với nỗi buồn đó, người 
ta có thể tự giết chính mình. Đến mức độ đó thì nó đã vượt qua mọi lí lẽ. 
MIKE AUSTIN: 
Thế nên đó là điều nên tránh?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đúng vậy. 
GIẤC MƠ
 
MIKE AUSTIN: 
Xin ngài có thể mô tả giấc mơ thuộc hiện tượng nào của tâm? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có những kĩ thuật để khiến cho giấc mơ trở nên 
không bị nhầm lẫn (non-mistaken) như đối với bản chất tuyệt đối của thực tại. 
Nếu không, giấc mơ, dù nó là một sự kiện bất thường, cũng có ít giá trị trong 
việc đào luyện tâm linh. 
MIKE AUSTIN: 
Có phải đó là do tâm thì rất lăng xăng dù khi thân đã ngủ yên, tâm vẫn tiếp tục 
hoạt động?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Khi một người đang ngủ mà không mơ–trong trạng 
thái không mơ thì ít vướng vào tính khái niệm. Khi ở trong mơ, thì người ta sẽ 
phát sinh tâm tham lam, sân hận v.v... và dĩ nhiên là có nhiều tính khái niệm. 
Tâm thức trong mơ thì dễ thay đổi hay dễ chuyển hoá. Kinh nghiệm sung sướng hay 
đau khổ trong giấc mơ ấy có thể ảnh hưởng đến cùng một kinh nghiệm từ tâm thức 
thô trọng khi thức giấc. Vì tâm thức mơ màng thì vi tế hơn tâm thức khi tỉnh 
táo, nó gây ấn tượng nhiều hơn. Nhưng ở đây, thân thể có giấc mơ đặc biệt là một 
trường hợp của thân thô động thực sự đã bị bỏ rơi. Có những trường hợp như thế 
này do hành vi hay nghiệp từ đời trước của người đó, như là quà tặng vào ngày 
sinh, một người tài ba. Những người này có thể trải nghiệm được những điều thực 
sự đang xảy ra bên ngoài vào thời điểm này–bên ngoài thân của họ.
Cũng có trường hợp những người được rèn luyện để sử 
dụng một ảo thân đặc biệt (special dream body). Chẳng cần mất thời gian qua tu 
đạo, họ thường mở một trang sách trước mặt trước khi đi ngủ. Trong khi ngủ, họ 
sẽ tách lìa thân họ ra và dành thời gian ấy để đọc sách. Trang sách này phải 
được tách ra (làm dấu) trước đó vì thân ảo này không có khả năng chuyển dịch 
những vật thể thô trọng. 
 
LUÂN HỒI VÀ TÁI SANH
 
 
 MIKE AUSTIN: 
Xin ngài giải thích rõ từ quan điểm của đạo Phật, trên nền tảng sinh lý học, 
chính xác điều gì xảy ra trong toàn bộ tiến trình luân hồi sinh tử và tái sanh? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có bốn trường hợp. Sinh được gọi là nhất thời, 
chỉ như khoảnh khắc của một ý niệm. Khoảnh khắc kế tiếp được gọi là bắt đầu của 
giai đoạn đầu tiên, được tính từ khi thân thể thô động bắt đầu hình thành cho 
đến khi chết (trụ). Rồi trong trạng thái chết, dù có sự chuyển biến trong thân 
xác già nua, mối quan hệ giữa lực nâng đỡ cho thức và cái mà thức nâng đỡ ở 
trong thân rất là dữ dội. Đến thời điểm chết, mối quan hệ giữa thức với lực nâng 
đỡ bởi nền tảng vật chất, chỉ còn được diễn ra trong trạng thái vi tế nhất. Vào 
điểm này, tâm thức cá nhân được nối kết với một luồng nội lực bên trong, hay còn 
gọi là ‘khí–air,’ Vì người sắp trải qua trạng thái thân trung ấm hay 
bardo, ngay khi tiến trình chết chấm dứt, trạng thái 
thân trung ấm liền bắt đầu. 
Trong trạng thái thân trung ấm, dù chúng sinh không 
có một thân vật lý thô trọng, nhưng họ cũng có một sắc thể–có được do sự tương 
tác giữa luồng khí nội lực và thần thức. Nó thô trọng hơn thân vi tế nhất, nhưng 
vi tế hơn thân vật chất thông thường mà chúng ta thấy được.
MIKE AUSTIN: 
Nó có hình dáng không? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Ồ! Có. Nó cũng có hình dáng của chúng sinh như 
khi nó được sinh ra. Có những hệ thống giáo lý, trong đó nói rằng trong nữa thời 
kỳ đầu của thân trung ấm, thân bardo sẽ có hình dáng như thân trong quá 
khứ; và trong nữa thời kỳ sau, là có thân sẽ tái sinh. Cứ mỗi 7 ngày sẽ có một 
cái chết nhỏ diễn ra trong thân trung ấm. Với 7 lần chết như thế diễn ra trong 
mỗi tuần, có thể duy trì thân trung ấm cho đến tuần thứ 7, nhưng không hơn. Vào 
lúc đó họ sẽ quyết định tái sinh. Chúng sinh trong dạng thân trung ấm cũng giống 
như chư thiên hay quỷ thần, trong đó không có thân vật chất nặng nề dễ bị vướng 
mắc nhiều giới hạn. Thân này chúng ta không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Trong 
số những chúng sinh không có thân vật chất nặng nề–không chỉ là loài trong thân 
bardo–còn có nhiều loại như: chư thiên, á thần (a-tu-la), và quỷ thần, 
v.v... Như trong cộng đồng loài người cũng có những người không dính líu đến 
việc tu tập theo đạo Phật, có người tu tập chút ít, có người nhiều, có người ít. 
 Người tiên 
tri (oracles), nói chung, cũng là người như chúng ta, tức vẫn còn trong luân hồi 
sinh tử. Những chúng sinh như Chenrezi[17] trong xã hội của chư thiên, đều là những người đã 
giác ngộ. Ở đây có rất nhiều dạng Chenrezi. Tâm từ bi của chư Phật nói 
chung, sự thị hiện của các ngài qua thân tướng được gọi là Chenrezi. Như 
vậy dạng
Chenrezi này không phải là một cá nhân nào. Tuy nhiên, như Đức Phật 
Thích-ca Mâu-ni là một nhân vật đặc biệt. Cũng có Chenrezi là một con người đặc 
biệt. Cũng thế, có những con người như chúng ta có thể họ là một Chenrezi, như 
là một vị Hộ thần (deity) đặc biệt. Khi một người đã được giác ngộ, người ấy sẽ 
xuất hiện trong hình dạng của một Chenrezi. Vì hành giả trong giai đoạn gia hạnh 
vị (stage of generation) của Vô thượng Du-già Tan-tra (Highest Yoga Tantra) thì 
hành giả phải tự phát huy chính mình như vậy, nên họ được nhận danh xưng là 
Chenrezi. Tuy nhiên, họ không chỉ tiếp tục thể hiện như một Chenrezi, mà đồng 
thời, họ còn có thể thị hiện trong nhiều hình tướng khác. 
Riêng từ quan niệm Phật học, người ta chỉ có thể 
nói rằng Sắc thân (Form Body) chính là dạng tối hậu hoặc cao nhất của Sắc thân. 
Trong thâm sâu họ không thể nói rằng đó là dạng này hay dạng khác. Họ có thể thị 
hiện đồng thời trong nhiều dạng khác nhau, tương ứng với ước nguyện của người tu 
tập, và tuỳ thuộc vào lời phát nguyện trong đời trước của chư Phật. Do vậy, một 
Đức Phật sẽ thị hiện tức thời cùng một lúc trong dạng của Chenrezi, 
Văn-thù-sư-lợi (Majur), Di-lặc (Maitreya), v.v...tuỳ thuộc vào bản nguyện của 
hành giả tu tập. 
MIKE AUSTIN: 
Những sự thị hiện như thể giống như sự phản chiếu từ thân vật chất của một chúng 
sinh bậc cao; họ có một ý thức về một tri giác tương ứng với cái ngã không? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có rất nhiều khả năng. Chẳng hạn, một vị Bồ-tát 
có năng lực biến hoá có thể biến mình thành một chúng sinh khác. Rồi chúng sinh 
đó sẽ có ý tưởng về cái ‘tôi.’ Tuy nhiên, nếu chúng sinh đó trở lại biến hoá 
thành một chúng sinh khác, thì chúng sinh ấy có thể hiện thành con người, nhưng 
sẽ không thể được. Thế nên có nhiều trường hợp. Có trường hợp có ý tưởng về cái 
‘tôi,’ Có trường hợp không. 
MIKE AUSTIN: 
Trường hợp biến hoá thứ hai có lẽ là một thân có thực với một tâm thức có thực, 
nhưng liệu sẽ có một ý tưởng về cái ‘tôi’ không? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Trong trường hợp thứ hai, người ta có thể biến 
hoá nên phần tác dụng của con người, nhưng đó không thể là một con người riêng 
biệt. Chẳng hạn, nếu một bậc giác ngộ biến hóa thành hằng trăm hình tướng trong 
cùng một lúc, thì đó sẽ chẳng phải là 100 người, mà vẫn chỉ là một nhân vật 
trung tâm. 
 MIKE AUSTIN: 
Liệu nhân vật trung tâm ấy có đồng thời nhận biết được mọi việc đang xảy ra đối 
với 100 hoá thân kia hay không? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Ở đây có nhiều cấp độ. Đối với những chúng sinh 
có tầng bậc nhận thức thấp hơn, thì nhân vật trung tâm nhất thiết phải điều 
khiển mỗi hoá thân riêng biệt. Còn đối với những chúng sinh có tầng bậc nhận 
thức cao hơn, thì những hoá thân có thể tự điều khiển chính mình. Yếu tính tự 
phát và hoạt dụng không cần tác ý có liên quan ở đây. Đó là điểm khác nhau ở nơi 
có sự điều khiển. Khi một người có thể đồng thời biến hoá mà không cần dụng 
công, thì mỗi thân biến biến hoá của họ sẽ chịu sự điều khiển của chính họ. 
MIKE AUSTIN: 
Người như vậy có cùng lúc nhận biết chính mình cũng như các thân tướng là hoá 
thân của mình không? 
 ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vâng, Có trường hợp trong số trăm hoá thân, mỗi 
thân đều biết các thân khác đang làm gì. Chắc chắn đối với chư Phật hay Bồ-tát 
đều đúng như vậy. Nhưng điều này rất khó giải thích. Cho đến khi mỗi người tự 
thân chứng được, họ mới hiểu rằng chỉ bàn luận về một điều gì đó thì thật là vô 
ích. Là cái gì đó như khoa học giả tưởng hay là điều bịa đặt trong tôn giáo 
(cười)
 
MIKE AUSTIN: Ngài cảm nhận hệ thống học thuyết về sự hoá thân 
của các vị tulku[18] ở Tây Tạng là xác thực đến mức độ nào? 
Có bao nhiêu vị Lạt-ma tái sinh được phát hiện 
trong quá khứ mà ngài cho là chân xác nhất? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Ồ! Điều ấy rất khó. Có hai việc rất quan trọng ở 
đây. Một là việc khảo sát vị tulku tái sanh phải được thực hiện rất kĩ 
lưỡng. Rất cẩn thận trong việc khảo sát và tìm kiếm này, để đừng rơi vào sự 
thiếu chính xác. 
Thứ hai, là chúng ta phải xem xét cách mà vị 
tulku hướng cuộc sống của ngài vào mục đích nào. Chúng ta cũng phải phán 
định hướng đó . Mục đích duy nhất cuả ý nguyện tái sinh là làm nên được một kết 
qủa tốt đẹp nào đó. Không có kết qủa tốt đẹp đó, thì đó là điều đáng ngờ. Trường 
hợp tái sinh có chủ định chọn thân mới một cách thận trọng, với mục đích rõ ràng 
là giúp đỡ mọi chúng sinh qua tinh thần tôn giáo hoặc các phương tiện khác. Dù 
sao, cũng phải có một kết qủa cụ thể. Với một số trường hợp mà không có kết quả 
như thế này thì tôi còn nghi. Nên tôi cho rằng hai phần bằng nhau. Có thể còn 
một chút tự tin về phía tôi khi nói như thế này. 
MIKE AUSTIN: 
Tôi biết là khó khái quát hoá được. Việc tìm kiếm thân tái sinh được tiến hành 
như thế nào từ khi ngài sống lưu vong? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vẫn còn một ít vị chưa được tìm ra. Một số thì 
rất xác thực. Chủ yếu là căn cứ vào tập tính của chính đứa trẻ: như biểu hiện 
qua những dấu hiệu đặc biệt.
MIKE AUSTIN: 
Tất nhiên, là có sự giảm thiểu số lượng. Có đúng như vậy không? 
 ĐẠT-LAI LẠT-MA: Khá nhiều! Các bạn thấy trong quá khứ, dân số gồm 
6 triệu. Nay chỉ còn 100.000. Nếu các bạn so sánh, tôi nghĩ là giảm đi khá 
nhiều. (Cười). Chúng ta cũng đã có những vị Lạt-ma người Mĩ. (Cười). 
MIKE AUSTIN: 
Điều ấy có nghĩa là gì?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vâng. Tôi nghĩ ít nhất có hai người Mĩ được công 
nhận là Lạt-ma Tây Tạng 
MIKE AUSTIN: 
Ngài có nghĩ rằng số đó có phần ít? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tôi không biết được nhiều.
MIKE AUSTIN: 
Tiến trình công nhận được áp dụng cho hai trường hợp này như thế nào? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có thể là họ đã tự phát hiện ra. Tôi không biết 
chi tiết. 
MIKE AUSTIN: 
Chính ngài không đích thân chuẩn y việc này? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tôi chẳng có việc gì ở đây cả. 
MIKE AUSTIN: Tôi muốn kẻ một đường kẻ song song với những điều 
ngài vừa nói về một sinh thể có vô số hoá thân. Giả sử có 100 tỉ tỉ[19] tế bào trong thân người. Mỗi tế bào thể hiện một 
chức năng như thể biểu hiện rằng nó có một tâm thức riêng biệt. Nhưng chúng đều 
dưới sự kiểm soát của cùng một thân chính. Liệu các chúng sinh này đều được liên 
hệ với nhau theo cùng một tính cách, như là từng bộ phận của một cơ thể? Nói 
cách khác, như là thành phần hoặc là hoá thân của một thân thể huy nhất? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Mọi chúng sinh đều có chung một trải nghiệm–trong 
ý nghĩa chúng sinh cùng dạng–trong đó, bản chất của tâm thức của họ chính là 
chiếu tri (illumination and knowing). Mặt khác, nó không có liên kết với nhau. 
Nếu ông giả định rằng có nhiều chúng sinh đều sinh ra từ một nguồn như từ Thượng 
đế, thì câu trả lời là không. 
MIKE AUSTIN: 
Ngài có thấy rằng chúng độc lập với nhau không?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đúng vậy họ tách biệt nhau. Ngay cả khi họ được 
giác ngộ, họ vẫn là riêng biệt dù sự chứng ngộ của họ là giống nhau. 
MIKE AUSTIN: 
Ngài nghĩ gì về bản chất tâm thức của 100 tỉ tỉ tế bào này? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Không phải là có một thức thân (body 
consciousness) bao quát hết chúng đó sao? Chẳng hạn, Nơi mà nhãn quan hiện hữu, 
ngay trong sắc thể, thì nhãn thức duy trì (tính thấy) hoặc bao quát cả phạm vi 
cuả sắc thể. Cùng lúc đó, thức thân cũng hoạt dụng như vậy. Thức thân biến hành 
khắp thân.
MIKE AUSTIN: 
Trong mỗi tế bào của con người này, như chúng ta đã thảo luận trước đây, có hàng 
ngàn gene, là những mảnh nhỏ mang những mã số hoá học (chemical code) 
quyết định bản tính toàn bộ con người cũng như những tác dụng riêng biệt của tế 
bào mà nó cư ngụ trong đó. 
Bây giờ trong mỗi tế bào, mã số hoàn chỉnh về con 
người được bao hàm, nhưng chỉ có một gene là được kích hoạt để phát sinh 
thể dạng cần thiết cho vai trò của nó, như móng chân, con mắt, hay tế bào ngón 
tay. Ngài cho rằng cái gì đã quyết định điều này, thực tế là chính xác gene nào 
được kích hoạt và gene nào không? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đây là một chức năng vật lí. Nó thuộc về thân, 
không phải tâm thức. Nó được duy trì bởi tâm thức, nhưng thể hiện ra hành vi nơi 
thân. 
MIKE AUSTIN: 
Trước khi ngài khẳng định rằng đó là tâm. Và do vậy, nó là vô thuỷ. Thế thì đã 
từ bao lâu kí ức của con người hoạt động? Vô cùng hay chăng? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đối với những người không được đào luyện (tâm 
linh), tâm thức họ càng trở nên vi tế–như vào lúc cận tử–họ càng trở nên ít tỉnh 
thức hơn. Đối với người đó sự đào luyện (tâm linh) để vận dụng thức vi tế này, 
tuy vậy, họ lại càng có sự tỉnh giác lớn hơn và kí ức lớn hơn như những trạng 
thái vi tế được thể hiện. Trong số những người tôi biết được, khi tâm thức vi tế 
hơn hiện hành, họ có thể nhớ lại bảy, tám trăm hoặc cả ngàn năm về trước bằng 
tâm thức ấy. 
MIKE AUSTIN: 
Chính xác, là kí ức ấy nhớ lại được bao xa? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Để nhớ lui lại một thời gian rất dài, chỉ phát 
huy và vận dụng tâm thức vi tế thôi chưa đủ. Vì để nhớ lại thời gian lâu xa, cần 
thiết phải gỡ bỏ mọi chướng ngại dẫn đến toàn trí (trí huệ). Tôi muốn nói đến 
đối tượng cảm giác bậc cao, cao vượt qua cả thời gian và không gian. Chẳng hạn, 
dù đã có được năng lực đại thần thông (great clairvoyance),[20]nhưng ngài Xá-lợi-phất vẫn không biết rõ được những 
căn cơ rất vi tế của một đệ tử, nhưng Đức Phật thì có được điều năng lực này.[21] 
Mẹ của ngài Mục-kiền-liên đang ở một nơi rất xa xôi 
về cả thời gian và không gian, mà Mục-kiền-liên không thể nào biết được, nhưng 
Đức Phật lại biết. Vì đối tượng để nhận biết có thể là cảm giác siêu việt vượt 
qua cả í niệm về thời gian không gian, nên sự thể hiện của tâm thức vi tế là 
chưa đủ. Hành giả rất cần phải vượt qua những chướng ngại đối với nhất thiết trí 
(omniscience). 
MIKE AUSTIN: 
Có phải người muốn nói rằng khi những chướng ngại này được vượt qua, thì í niệm 
về thời không được gỉai trừ–có nghĩa là ý thức về những sự kiện trong vũ trụ; 
quá khứ, hiện tại, tương lai là đều đồng thời với những gì đang diễn ra trong 
tâm thức họ?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Thời gian và không gian đều tương quan nhau. 
Chúng quan hệ nhau trong một tâm thức riêng biệt. Đối với chúng ta, thời gian lẽ 
ra là một năm, nhưng đối với những người có tâm thức vi tế hơn, thì đó là một 
khoảng thời gian ngắn hơn. Cũng vậy, cũng có thể một người đã có được năng lực 
thiền định đẳng trì, họ có thể biến hay làm thay đổi một sát-na thành một kiếp 
hoặc biến một kiếp thành một sát-na, điều ấy có nghĩa là chỉ riêng đối với với 
người ấy. 
MIKE AUSTIN: 
Kí ức được lưu giữ ở đâu? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Không phải chỉ trong não bộ. Tại ngay mỗi thời 
điểm chúng ta đang thảo luận, không cần thiết phải có não bộ. Chỉ riêng tâm thức 
có thể hiểu được sự kiện trong quá khứ. Kí ức phải (đi) cùng với tâm thức vi tế. 
Chẳng hạn, khi tâm thức vi tế cực quang thể hiện vào lúc lâm chung, thì não bộ 
đã hoàn toàn ngưng nghỉ rồi. Từ cái nhìn về mặt nhận thức cuả nó, thì được gọi 
là tâm thức; và từ quan điểm hấp lực của nó, hoặc thu hút về phía đối tượng cuả 
nó, thì được gọi là luồng nội khí hay năng lực bên trong. Tâm thức vi tế và 
luồng nội khí bên trong này là thực thể bất khả phân. Thực thể bất khả phân ấy 
chỉ là trong tư tưởng hay qua cách đối kháng của chúng. 
MIKE AUSTIN: 
Trong luồng nội lực–tâm thức này còn có những vết tích hoặc dấu ấn trong đó còn 
lưu lại mọi kí ức không? Phải chăng mọi sát-na đều được ghi lại trong đó? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vâng, nếu các bạn nhớ được đời trước cuả mình, 
thì não trạng của đời sống trước không còn quẩn quanh đây nữa, và não trạng này 
là mới. Phải không? Thế nên các hình ảnh đều được ghi lại trong tâm thức. Điều 
này tương tự như vị Hiệu trưởng của trường Đại học bang Virginia mô tả cho tôi về sự thay đổi hoàn 
toàn của các tế bào não trong từng vài năm. 
MIKE AUSTIN: 
Tâm thức vi tế–năng lực nội tại này, phải chăng nó đã khiến cho có sự khác biệt 
giữa các loài chúng sinh? Có phải đây là ranh giới cao nhất giữa người này và 
người khác? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đó chỉ là cái “Ta” được biểu hiện tuỳ thuộc vào 
sự tương tục của tâm thức. Có hai loại “Ta” hay bản ngã: thô động và vi tế. Có 
cái “Ta” được biểu hiện tuỳ thuộc váo thân và tâm thô động, và có cái “Ta” được 
biểu hiện tuỳ thuộc vào tâm vi tế và năng lực nội tại. Khi cái này hiện hành, 
thì cái kia biến mất.
MIKE AUSTIN: 
Có phải cái tâm liên quan đến luồng nội lực vi tế chính là cái không có khởi 
đầu, hay nó là tác dụng thứ yếu cuả luồng tâm thức –năng lực bên trong được quy 
về cho chính nó? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tâm thức vi tế và năng lực nội tại chính là nền 
tảng để thể hiện ra cái “Ta” vi tế. Khi ông nói về sự thể hiện cái “Ta” trong 
năng lực của tâm này, thì nhất thiết không cần phải có một kẻ tạo tác thực sự 
trong đó. Có người đã đặt câu hỏi này với một vị Geshe[22] lỗi lạc. Anh ta hỏi rằng nếu có người ở trong nhà, 
nhìn mãi vào cây cột, thì cây cột ấy sẽ được biểu hiện là tồn tại qua ý tưởng, 
và người ta biết rằng, khi không có người trong nhà, thì làm sao cây cột ấy thể 
hiện nó ra được? 
Vị Geshe đáp rằng, “Đúng vậy, dường như khó thật.” 
Lúc ấy, khi người hỏi đi ra, vị Geshe quay sang hỏi nói với người ạbn bên cạnh, 
“Người này dường như nghĩ rằng tâm thức biểu hiện phải được vây phủ chung quanh 
và được trói bằng mỗi đối tượng.” Thế nên ông thấy, nó có nghĩa là như vậy. Thực 
tế là một đối tượng thể hiện không thể xác lập tồn tại tuyệt đối khi tìm kiếm 
qua phân tích, có nghĩa là đối tượng nhất thiết chỉ được thể hiện qua ý niệm 
trong tâm thức. Nay khi các bạn khảo sát hoặc là nó được thể hiện do ý thức của 
người nào, rốt ráo các bạn không thể tìm thấy ở đâu cả. Cấu tạo này là cách thức 
phân tích tột cùng một thực thể nào đó biểu hiện qua khái niệm. Các bạn không 
thể nào tìm ra được nó. Như vậy, vật thể hiện hữu qua ý niệm thì lại không tồn 
tại trên cơ sở tự tính (inherent existence). Nó cũng là không (empty; s: nyat)
MIKE AUSTIN: 
Tôi chưa hiểu rõ lắm. Có phải cái “Ta” chính là tâm thức vi tế? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: cái “Ta” thô động được thể hiện nhờ vào thân và 
tâm thô trọng. Nhưng ngay cả khi thân và tâm ấy không hoạt động, thì vẫn có cái 
“Ta” biểu hiện. Có nghĩa là biểu hiện đối với thân và tâm vi tế đang hiện hữu. 
Chẳng hạn, một Du-già sư bậc cao có thể biểu hiện tâm thức vi tế hơn, và cùng 
một lúc quán sát được các hiện tượng quy ước, vì vị ấy có một tri giác ban sơ về 
cái “Ta”–không phải bằng cảm giác thô động, mà trong một cảm quan vi tế hơn được 
thể hiện qua tâm và thân vi tế. Chẳng có gì khác để thừa nhận. Nếu hoặc là tâm 
thức rất vi tế hoặc luồng nội khí bên trong được xác định là cái “Ta”, chính nó, 
nên đó sẽ là điểm sai lầm như đã được nêu ra trong Căn bản 
trung quán luận tụng[23] của ngài Long Thụ, rằng tác giả và đối tượng là 
một, vật biểu hiện và việc biểu hiện, người chiếm hữu và việc chiếm hữu. 
Chẳng hạn, khi ông nói ‘tâm tôi,’ người điều khiển 
hay chủ nhân chính là cái “Ta.” Trong trường hợp ông đang miêu tả, chủ nhân và 
việc làm chủ sẽ là một–điều ấy không thể được. Nếu ông thừa nhận một trong những 
điều này thực sự là cái “Ta,” thì sẽ mắc phải sai lầm này. Do vậy, điều ấy không 
hợp lí. 
MIKE AUSTIN: 
Điều gì sẽ xảy ra trong tâm–luồng nội lực vi tế nhất khi một người được giác 
ngộ? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Cái “Ta” của một Đức Phật, (chân) ngã của Đức 
Phật, chính là cái “Ta” vi tế này. Ở quả vị Phật, sẽ không còn luồng nội khí và 
tâm thô trọng. Cả năm giác quan linh lợi đều được điều động bởi chính luồng nội 
lực và tâm vi tế. Vì đó có nghĩa là tất cả. Nó đã trở thành nhất thiết trí 
(omniscient consciousness). Thế nên đến lúc tột cùng của Kim cang dụ định 
(vajra-like meditative stabilization) mà hành giả đạt được trong tiến trình 
hướng đến bốn chuyển thức,[24] và như vậy nên chỉ còn cực quang tâm thức là còn 
lại; hành giả không còn tái hiện trở lại mức độ thô trọng của tâm thức nữa. Như 
vậy, chỉ có cái “Ta” vi tế được thể hiện trong tâm thức vi tế. Chẳng hạn, Đức 
Phật Thích-ca Mâu-ni thị hiện qua thân tướng thô trọng để chúng ta có thể tiếp 
xúc được, đối với ngài các bạn có thể thừa nhận một cái “Ta” thô trọng, nhưng đó 
chỉ là hiện tướng của tâm vi tế kia. 
MIKE AUSTIN: 
Tôi xin hỏi ngài vài điều về tiến trình của kí ức. Khi phôi (bào thai) của con 
người phát triển, nó trải qua những giai đoạn tiến hoá từ loài cá đến động vật 
có vú, v.v...Theo ngài, tại sao phải lập lại mỗi tiến trình như vậy? 
 ĐẠT-LAI LẠT-MA: Do năm thành tố căn bản và năm luồng nội khí hoặc 
nội lực hiện hành đang chi phối thể trạng con người. Phải có điều gì đó tác động 
đến sự hình thành thực sự của thân mới, nhưng tôi không biết được rõ điều này. 
MIKE AUSTIN: 
Và kí ức từ những phần tạo tác trong quá khứ có sẵn trong mỗi dòng nội khí đang 
luân lưu như chúng tạo ra hình thể vật chất? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Luồng nội khí rất vi tế này chỉ cho dạng rất vi 
tế của luồng gió sinh động nâng đỡ thể chất. Luồng khí đi lên– tức gió chuyển 
động, có sự liên hệ với giọng nói, nước bọt, và những thứ khác. Luồng gió các 
nơi có tác dụng xuyên suốt thân thể. Yếu tố lửa–cùng với yếu tố gió, có tác dụng 
tiêu hoá thực phẩm và làm tăng trưởng các thành tố khác trong cơ thể. Luồng nội 
khí hướng xuống dưới–luồng gió bài tiết có tác dụng đối với sự tăng trưởng, duy 
trì và vận hành tinh dịch, máu huyết, phân, nước tiểu, v.v...Tôi nhớ không hết 
chi tiết điều này. 
 
 
Tánh không (nyat)
Nhị đế.
 
MIKE AUSTIN: 
Xin ngài giải thích tại sao đạo Phật tin rằng tâm thức là mê lầm; tại sao chúng 
ta có vô minh từ vô thuỷ?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có nhiều dạng mê lầm khác nhau. Theo một trường 
phái, thì có hai dạng. Thứ nhất là mê lầm do không biết. Thứ hai là do hiểu sai. 
Nếu ông hỏi từ đâu mà cái mê lầm cuả tâm thức sinh khởi, thì nó sinh khởi từ sự 
tương tục trong một sát-na trước của sự mê lầm. Nếu ông tìm kiếm một giải thích 
khác, thì sẽ có sát-na đầu tiên của mê lầm. Trong trường hợp này, có lẽ sẽ có 
mâu thuẫn với luận lí. Như được trình bày trong Tứ 
bách luận của ngài Thánh Thiên,[25] “Dù không có chỗ khởi đầu của phiền não, nhưng có 
chỗ kết thúc.” Vì tâm thức vô minh nhận lầm mọi sự việc, nên có sự chấm dứt việc 
mê lầm ấy. Những mê lầm ấy có thể được dừng lại bằng sự thấy biết chân chính 
(chánh kiến–right understanding), nhưng vì chúng phát huy tương tục từ sát-na 
trước của dạng tâm thức lầm mê ấy, nên không có chỗ khởi đầu đối với chúng. 
MIKE AUSTIN: 
Tại sao tâm thức không có sẵn tính giác ngộ sáng suốt?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Một khi nó có những nhiễm ô–là cùng với những 
nhiễm ô ấy–tâm không thể có cùng một lần với chúng. Nhưng, vì thực thể của tâm 
luôn luôn chân thực và trong sáng, tâm thực sự hoàn toàn thuần thiện. Do vậy, 
tâm được gọi là Phổ Hiền.[26] Sẽ có mâu thuẫn luận lý nếu cho rằng ban sơ, tâm 
vốn thanh tịnh rồi sau đó trở nên bị nhiễm ô một cách ngẫu nhiên. Do vậy, có thể 
nói rằng từ khởi thuỷ, tâm thức vốn là bất tịnh. 
MIKE AUSTIN: 
Tại sao bản chất giác ngộ chỉ là hạt giống? Tại sao nó không được phát triển 
hoàn toàn? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vì nó là hạt giống, quả của nó chưa hình thành. 
Thực tế là mọi tâm thức đều được an lập như có sẵn một bản tính chiếu tri, và 
yếu tố đó có khă năng chuyển tâm thức thành tâm giác ngộ nên được biểu hiện bằng 
tên gọi là ‘hạt giống.’ Chẳng có gì hơn thế nữa. Nếu có, thì các bạn sẽ cho rằng 
Thượng đế sáng tạo ra. Rồi các bạn sẽ phải tìm kiếm bản chất của Thượng đế; khảo 
sát xem bản chất của Thượng đế có chỗ khởi đầu và kết thúc không. Có rất nhiều 
sự tìm kiếm như vậy trong chương 9 cuốn Nhập Bồ-tát hạnh của Tịch Thiên[27] cũng như trong Lượng thích luận,[28] tác phẩm của ngài Pháp Xứng chú thích luận giải 
của ngài Trần-na. Tôi không có ý phê phán những ai chấp nhận Thượng đế. Tôi chỉ 
giải thích theo tinh thần đạo Phật. Nếu có những mâu thuẫn bên trong những học 
thuyết được trình bày qua lí luận, thì người ta sẽ bỏ rơi học thuyết ấy và chọn 
giáo lý nào không có sự thiếu nhất quán như vậy. Như đã được trình bày trong 
điều thứ tư của Tứ y, không y cứ vào thức mà y cứ vào trí huệ siêu việt. Có 
nhiều hiện tượng vốn không thể nhận rõ mãi cho đến khi hành giả có được sự phát 
triển tâm thức đến cao độ. Có rất nhiều hiện tượng kì dị mà không thể nào giải 
thích liền với dạng tâm thức này. 
 MIKE AUSTIN: 
Xin ngài giải thích bằng cách nào mà các tâm sở phiền não khác phát sinh, hoặc 
cách chúng lưu xuất từ căn bản vô minh? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Như tôi đã trình bày, có hai loại vô minh. Thứ 
nhất là mê lầm về trạng thái của các hiện tượng. Thứ hai là nhận thức lầm về bản 
chất các hiện tượng. Dạng vô minh thứ hai là người ta nghĩ rằng các hiện tượng 
ấy tồn tại trên cơ sở tự tính (inherently exist), trong lúc vốn không phải như 
vậy. Trong nhận thức sai lầm về tồn tại trên cơ sở tự tính, lại có hai dạng: 
nhận thức sai lầm về con người tồn tại trên cơ sở tự tính và nhận thức sai lầm 
về các hiện tượng tồn tại trên cơ sở tự tính. Sự phân chia này được lập do cách 
thức quan tâm của người sử dụng các đối tượng và đối tượng được sử dụng. 
Trong ý niệm con người là tồn tại trên cơ sở tự 
tính, có trường hợp nhận thức rằng cả cái ngã của chính mình và ngã của người 
khác đều thực sự tồn tại. Quan niệm hợp thể giả tạm của thân và tâm là ‘cái Ta’ 
có thực chính là cách nhìn cái ngã của mình tồn tại trên cơ sở tự tính. Với quan 
niệm này, lại có hai dạng khác nữa. Một là quan niệm rằng thấy cái hợp thể giả 
tạm của thân và tâm mà sinh khởi lên ý tưởng về ‘cái Ta’ và nhận nó là tồn tại 
trên cơ sở tự tính. Hai là thấy ‘cái của Ta’ và nhận nó là tồn tại trên cơ sở tự 
tính theo như cách trên. Bây giờ, trước hết, người ta phát khởi ý niệm về tồn 
tại trên cơ sở tự tính của các hiện tượng–tâm và hợp thể các sắc pháp–được xem 
như là nrền tảng thể hiện ‘cái Ta’. Sau ý tưởng đó, ‘cái Ta’ được thể hiện nhờ 
vào thân và tâm lại được nhận thức là tồn tại theo cách riêng của nó. Thế thì, 
với quan niệm về tính giả hợp như là nguyên nhân, người ta nhận thức rằng ‘cái 
của Ta’ là tồn tại trên cơ sở tự tính. Như ngài Nguyệt Xứng nói, “Ban đầu có sự 
chấp trước vào‘cái Ta’–bản ngã– và rồi chấp trước vào cái của Ta.” Một khi đã có 
sự phân loại về chính mình, thì sẽ có sự phân loại về cái khác. Khi hai sự phân 
loại này được phân định, thì người ta trở nên thích đắm chấp vào dạng thuộc 
riêng mình và không thích dạng hướng về kẻ khác. Từ đây, phát sinh toàn bộ vấn 
đề khác. Chẳng hạn, do quan niệm về tính giả hợp như là một ‘cái Ta’, vốn là tồn 
tại trên cơ sở tự tính, người ta phát sinh tính ngã mạn trong chính mình như là 
‘cái Ta’ tồn tại trên cơ sở tự tính, người ta phát sinh tính ngã mạn trong chính 
mình như là trội vượt hơn kẻ khác. Thế thì, ngay cả tâm sở hoài nghi (afflicted 
doubt)–vì đó là trường hợp chú trọng vào ‘cái Ta’ mà không tin vào điều gì khác 
(nguyên do tối hậu mà ‘Tôi không tin vào điều này hay điều kia’)–tuỳ thuộc vào 
điểm này. Và tâm sở tật đố (jealousy). Cũng vậy, kích động quan niệm về ‘cái Ta’ 
là tồn tại trên cơ sở tự tính là những quan niệm cực đoan: thường hằng và đoạn 
diệt. Chẳng hạn, tin rằng không có kiếp trước và kiếp sau, hoặc cho rằng khi đã 
tin có một bản ngã thì cái ngã này sẽ tồn tại vĩnh viễn. Thế nên trước hết, một 
hiện tượng trình hiện như tồn tại trên cơ sở tự tính và khi nó như vậy, thì phẩm 
chất thiện, ác và tất cả mọi thứ khác cũng trình hiện theo cách đó. Tâm lúc ấy 
tán trợ cho trình hiện này. Do đây là một trình hiện dựa vào tính tăng thượng 
của thiện ác–vượt trên những gì có thực– nên tâm thức con người rơi vào các cực 
đoan về cái thiện ác chân thực và phát ra những thái độ không hợp lí, qua đó, 
trở lại, phát sinh các phiền não. 
 
Nhị đế
 
MIKE AUSTIN: 
Xin ngài trình bày về Hai chân lý: Chân lí quy ước và Chân lí tuyệt đối. Chúng 
là gì, và vận hành như thế nào? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Điều này rất quan trọng. Lấy cái bàn làm thí dụ. 
Nếu người ta tìm kiếm đối tượng được thể hiện–tự thân cái bàn–thì không thể nào 
tìm ra được. Nếu người ta chia cái bàn ra từng phần theo ý nghĩa chiều kích vật 
thể hoặc theo phẩm tính chất lượng, thì không thể nào tìm ra được tính chất tổng 
thể cái bàn là gì. Thực vậy, đối với tâm thức chúng ta, có sự phân biệt rõ ràng 
giữa toàn thể và từng phần khi chúng trình hiện với chúng ta, dường như cái tòan 
thể tách biệt với từng phần–từng phần tách biệt với tòan thể. Tuy nhiên, thực tế 
lại không phải như vậy. Bây giờ, khi khảo sát theo hướng này, sẽ không bao giờ 
thấy được cái bàn. Cái không được tìm thấy này, dù vậy, không có nghĩa là cái 
bàn không hiện hữu. Chúng ta đang sử dụng cái bàn, đúng không? Nhưng nếu chúng 
ta tìm kiếm, thì chúng ta không thấy. Thế nên có hai cách thức tồn tại của cái 
bàn. Một là thừa nhận cái bàn bằng tâm thức mà không cần phải phân tích, và cái 
bàn chỉ hiện hữu theo quy ước. Loại bàn ấy chỉ được tìm thấy trong dạng tâm thức 
ấy. Tuy nhiên, nếu các bạn xem cái bàn như là một đối tượng, nếu các bạn không 
hài lòng với cái này chỉ vì khi bạn để tay lên đó nhưng tìm hiểu nó thực sự là 
gì trong từng phần–hoặc cái này là bàn, hay cái kia là bàn– thì vẫn không có 
điều gì có thể tìm ra được. Tại sao có cái không tìm thấy về cái bàn này? Do vì 
bàn là cái gì đó được tìm ra bằng phân tích, nên nó không thể tìm thấy được. Bây 
giờ tâm thức tìm kiếm cái gì để thấy được cái bàn trong những bộ phận của nó khi 
được khám phá ra? Chỉ tìm thấy được cái không-thể-tìm-ra (non-finding) của cái 
bàn. Chính cái không-thể-tìm-ra này là bản tánh tối hậu cuả cái bàn (final 
nature); nền tảng, cơ sở của nó, chính cái không-thể-tìm-ra này là phẩm 
tính của cái bàn. Những gì vi tế hơn thì không tồn tại. Do vậy, đây chính là 
phương thức tối hậu hay cách thức tuyệt đối để lập nên cái bàn. 
 Bây giờ, 
phương thức hiện hữu được tìm thấy trên phương cái bàn như là nền tảng hoặc cơ 
sở. Do vậy, cái không-thể-tìm-ra này thực sự là phương cách hiện hữu của 
cái bàn. Như vậy, về mặt nền tảng hoặc cơ sở, cái bàn có hai bản tính: một là 
được tìm thấy bởi tâm không phân tích, và một là được tìm thấy bởi tâm thức phân 
tích. Về mặt nền tảng hoặc cơ sở, thế thì, có một đối tượng được tìm thấy bởi 
thức phân biệt tuyệt đối và một đối tượng được tìm thấy bởi thức phân biệt theo 
quy ước. Thế nên kinh nói rằng “Sắc tức thị không, không tức thị sắc.”[29] Bây giờ hai chân lý này bao hàm lẫn nhau. Hai sự 
thực ấy chỉ là một thực thể nhưng dung nhiếp lẫn nhau. 
MIKE AUSTIN: 
Dung nhiếp lẫn nhau như thế nào? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Về mặt hiện tượng, cái gì là chân lí tuyệt đối 
thì chẳng phải là chân lý quy ước và ngược lại. 
MIKE AUSTIN: 
Thế nên, có sai lầm không khi nói rằng chúng khẳng định lẫn nhau?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Cái này chẳng khẳng định cho cái kia. Dù vậy, nếu 
ông lấy thực tại tuyệt đối hoặc tánh không (nyat) của cái bàn như là nền tảng để 
tìm thấy nếu nó có thể tìm ra được, thì nó sẽ trở thành chân lý quy ước theo 
nghĩa chính nó là cơ sở. Trong mối tương quan với cái bàn, tánh không (nyat) của 
nó là một chân lý tuyệt đối, nhưng tương quan về mặt thực tại riêng của nó, có 
nghĩa là thực tại của thực tại (reality of the reality), thì đó là chân lý quy 
ước. 
Nó mâu thuẫn với cái gì đó là phương thức hiện hữu 
riêng của nó. Do vậy, thực tại của vật thể, là chẳng phải thực tại riêng của 
chính nó. Đây là vì khi thực tại được tìm kiếm, khi bản chất của thực thể được 
tìm kiếm, thì chẳng thể nào tìm ra được. 
MIKE AUSTIN: 
Khi tánh không (nyat) lần đầu tiên trình hiện trong tâm, nó như thế nào? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Cho dù thuật ngữ dharmat–pháp tánh[30] không có ý phủ định chút nào trong đó, nhưng 
khi–thể tính hay thực tại của hiện tượng–trình hiện trong tâm, thì nó phải trình 
hiện qua căn để của phủ định. Rất quan trọng khi có sự phân biệt này. Tôi sẽ 
trình bày trong ngữ cảnh về Nhị đế được đề ra trong tác phẩm 
Căn bản Trung quán luận tụng
[31] của ngài Long Thụ. Phải chăng khi tồn tại trên cơ 
sở tự tính được tìm ra, nó chẳng được lập thành bởi vì nó không tồn tại, hoặc dù 
nó tồn tại, nó cũng không được tìm thấy bởi vì nó không thể nào có được dưới sự 
phân tích? Chính là điều thứ nhất. Khi các bạn quán sát cách thức sự vật trình 
hiện trong tâm thức mình, thấy chúng xuất hiện như thể chúng được tìm thấy bằng 
sự phân tích. Do vậy, nếu hiện tượng tồn tại như cách chúng trình hiện trong tâm 
chúng ta, thì khi các bạn quán sát chúng, chúng sẽ càng trở nên rõ ràng hơn. 
Thực tế là chúng không như vậy, mà là một dấu hiệu rằng chúng không tồn tại như 
cách chúng trình hiện. Nói tóm tắt, dù chúng trình hiện như chúng tồn tại trên 
cơ sở tự tính, chúng vẫn không hiện hữu theo phương thức ấy. 
Bây giờ, trong tâm ông, ban đầu ông đã có ý tưởng 
rằng đối tượng không hiện hữu theo cách nó đang trình hiện. Khi ông quen với suy 
nghĩ này rồi, cuối cùng ông sẽ có được sự khẳng định rằng đối tượng không tồn 
tại chút nào theo cách chúng đang trình hiện. Ngay lúc đó, ý tưởng riêng của ông 
về sự trình hiện là một kinh nghiệm về tính không, đơn giản là vắng bặt sự tồn 
tại trên cơ sở tự tính. Ngay khởi đầu cuả tiến trình này, đối tượng–cái này vốn 
là không–có thể vẫn trình hiện. Theo cách dễ hiểu, như khi xem phim, các bạn có 
thể phân biệt hai thời gian khác nhau trong khi xem phim. Trong cả hai trường 
hợp, hình ảnh sẽ xuất hiện qua nhãn thức các bạn, nhưng trong khoảnh khắc thứ 
nhất, người ta có thể quán sát được chúng, trong khi khoảnh khắc sau đó, các bạn 
sẽ suy nghĩ kỹ rằng điều này không tồn tại như sự kiện có thực. Nếu các bạn duy 
trì và phát huy ý tưởng rằng chúng không hiện hữu–nếu các bạn tập trung vào tính 
phi hiện hữu của nó–thì đến lúc trình hiện của chính nó sẽ bắt đầu biến mất. 
Điều này bởi vì điều kiện trung gian có trước cuả nhãn thức sẽ bắt đầu giảm trừ 
đi. Do vậy, khi các bạn bắt đầu khẳng định tánh không (nyat), đó chỉ là sự phủ 
định hay vắng bặt đối tượng phủ định–tồn tại trên cơ sở tự tính được khẳng định. 
Ngay dù ban đầu, đối tượng vẫn xuất hiện; sau cùng, với sự tập trung chỉ vào 
tánh không (nyat), đối tượng sẽ biến mất. Nên nhờ vào quán sát tánh không (nyat) 
của đối tượng, khi đối tượng tái trình hiện, ý tưởng nó không tồn tại theo cách 
như thể nó hiện hữu sẽ được giảm trừ. 
Đây được gọi là trình hiện như huyễn. Đến mức này 
các bạn có thể chế ngự được phiền não cuả mình. Những tâm thức mê lầm này không 
còn cách nào để hiện hành vì không còn sự hỗ trợ của ý niệm tồn tại trên cơ sở 
tự tính. Dù đối với người sơ cơ, còn có trường hợp khi ý niệm tồn tại trên cơ sở 
tự tính hoạt động như một trợ thủ cho tâm thức đúng đắn, nói chung, không cần 
thiết một tâm thức như vậy phải có trợ thủ từ sự nhầm lẫn về bản tính của sự 
hiện hữu. 
Do vậy, tâm thức nhận ra rằng đối tượng không tồn 
tại theo cách riêng của nó sẽ rất có ích để ngăn ngừa sự phát triển phiền nào, 
trong khi đó nó sẽ không làm chướng ngại một tâm thức tốt lành. 
MIKE AUSTIN: 
Trong khoảnh khắc nhận thức được tánh không (nyat)– khi đối tượng biến mất–cảm 
giác đó như thế nào?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tôi chỉ nêu ra một ví dụ. Chẳng hạn, sự phản 
chiếu từ một khuôn mặt là tánh không (nyat) của cái đang là khuôn mặt, nhưng 
tánh không (nyat) của cái đang là khuôn mặt đó thì không có thực; tánh không 
(nyat) của tồn tại trên cơ sở tự tính của đối tượng thì có thực. Khi từ trong 
sâu thẳm của tâm nhận ra sự vắng bặt dạng tồn tại của đối tượng, thì đến mức đó, 
các thức khác không còn được phát huy nữa. Ngay cả ý niệm ‘đây là tánh không 
(nyat)’ cũng không được phát huy. Nếu các bạn có ý tưởng ‘đây là tánh không 
(nyat)’, thì tánh không ấy sẽ xa lìa ngay. Cũng giống như một đối tượng dưới sự 
quán sát. Nó sẽ không đạt đến mức hiện hữu như một đối tượng có thực từ sự lĩnh 
hội bởi tâm thức. 
MIKE AUSTIN: 
Thế là có sự biến mất ý niệm nhị nguyên? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Không, dù ở đây vẫn còn ý niệm nhị nguyên. Có ý 
niệm nhị nguyên của trình hiện từ đối tượng quy ước cũng như nhị nguyên của 
trình hiện từ ý niệm về tánh không (nyat).
MIKE AUSTIN: 
Nếu ngài muốn mô tả chính ý niệm về mặt quy ước, ngài có cho rằng nó trong sáng, 
rỗng không, sống động và toả chiếu hay không? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Điều ấy rất khó mô tả. Để giải thích điều này 
chính xác thì rất khó. Có nhiều dạng trình hiện nhị nguyên khác nhau. Một là 
trình hiện theo quy ước–đối tượng như chúng ta thường thấy. Rồi có trình hiện 
của tồn tại trên cơ sở tự tính; cũng là trình hiện của chủ thể và đối tượng như 
thể khác biệt và trình hiện của một ý tưởng chung–hình ảnh bao trùm mọi đối 
tượng trong một nhóm đặc thù. Khi người ta đã quen với tâm trực nhận tánh không 
(nyat)–tu tập và thậm chí đi xa hơn và vượt lên trên định đẳng trì (meditative 
equipoise)–trở lại thành trực giác; thì đối với tâm thức ấy, các dạng trình hiện 
nhị nguyên đều biến sạch.
MIKE AUSTIN: 
Không có sự chiếu soi hoặc toả sáng từ trình hiện tánh không (nyat) hay sao? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Không, nhưng về phương diện thực hành Tan-tra 
thừa là chuyện khác. Đó không phải là từ quan niệm về tánh không (nyat), mà từ ý 
thức. Nhờ vào sự chuyển hoá các thức thô động, mà có nhiều dạng trình hiện khác 
nhau. Những trình hiện này là kết quả từ tâm thức vi tế hơn cũng như chúng sinh 
liên hệ với thân được cấu tạo bởi tinh trích trắng và đỏ[32] của họ.
MIKE AUSTIN: 
Xin ngài có thể mô tả tâm của một Đức Phật?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Những điều gì ngăn trở tâm đạt đến nhất thiết trí 
được gọi là sở tri chướng (obstructions to omniscience). Về mặt sở tri chướng, 
còn có những tiềm năng được an lập bằng ý niệm tồn tại trên cơ sở tự tính, và 
nguyên nhân khiến đối tượng trình hiện như thể chúng tồn tại trên cơ sở tự tính 
hoặc hiện hữu một cách cụ thể. Ngay dù khởi thuỷ, hiện hữu hư vọng của đối tượng 
là sai lầm của chủ thể–thức nhận biết đối tượng ấy–có lẽ những sai lầm về những 
đối tượng, trong đó chính nó bị nhiễm ô bởi vô minh hoặc những tiềm thể của vô 
minh. Từ trình hiện này–thuộc đối tượng tồn tại trên cơ sở tự tính–có sự nhiễm ô 
khiến nhận thức về nhị đế là hai thực thể khác biệt. Do nhiễm ô này, khi hiện 
tượng sinh khởi, chúng dường như hiện hữu theo cách riêng cuả nó, thế nên ngăn 
cản sự trình hiện thực tại cuả nó. Tương tự, trong khi thực tại của đối tượng 
trình hiện, thì đối tượng lại không. Chúng ta nói về nhận thức trực tiếp. Trong 
khi sở tri chướng này được tháo gỡ, tuy thế, nên khi nhận biết về đối tượng, 
người ta có thể biết được bản chất của chúng, và khi biết được bản chất, người 
ta có thể biết được đối tượng. Tâm thức con người có thể đồng thời và trực tiếp 
khẳng nhận cả hai thứ, đối tượng và bản chất cuả chúng. 
Thế nên nhất thiết trí–từ quan niệm nhận biết đối 
tượng quy ước–là tâm thức nhận ra được sự đa dạng của mọi hiện tượng. Từ quan 
niệm cái biết của thức về bản chất của đối tượng, nó là tâm thức nhận biết 
phương diện thức hiện hữu của các đối tượng, có nghĩa là tánh không (nyat). 
Nhưng đó chỉ là một tâm thức mà biết được cả hai phương diện. Đây là khía cạnh 
đặc biệt về nhất thiết trí cuả Đức Phật. 
MIKE AUSTIN: 
Tại sao nhất thiết trí tuỳ thuộc vào sự giải trừ câu sanh phiền não thông qua 
tâm từ? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Động cơ để đạt được nhất thiết trí là để cứu giúp 
người khác. Để được như vậy, chúng ta phải học cách làm sao cứu giúp người khác. 
Thế nên, không được mê mờ việc gì cả. Những nhiễm ô làm chướng ngại tri kiến về 
những giai vị tu chứng khác nhau, những điều quan tâm, v.v...của hành giả, đều 
là kẻ thù (trở ngại) chính của một vị Bồ-tát. Những sở tri chướng dù thế nào 
cũng không bao giờ có ích cho một vị Bồ-tát, trong khi đó, phiền não chướng 
(obstructions to liberation), có nghĩa là phiền não, có khi lại có ích trong 
việc lợi lạc cho kẻ khác (như trong trường hợp người lãnh đạo có nhiều con để 
giúp cho ông ta trong việc cai trị). 
Từ quan niệm nhận thức tánh không (nyat) để vận 
hành như sự hoá giải cho sở tri chướng lại tuỳ thuộc rất nhiều vào động cơ. Dù 
quan niệm nhận thức tánh không (nyat) trong tính tương tục của một Thanh văn hay 
Độc giác, cũng tương tự như tính tương tục của một Bồ-tát Đại sĩ, năng lực của 
Bồ-tát được xem như thuốc giải độc cho sở tri chướng là nhờ vào động cơ và cũng 
nhờ vào công đức lớn lao. 
Không có cách nào để tích tập được trí huệ dẫn đến 
thành tựu vị mà không thông qua sự tích tập công đức. Việc ấy như thể các bạn 
muốn dựng lên một trong những mái nhà, muốn vậy các bạn cần phải dựng lên hai 
cột. Dù bạn không muốn dùng một cây cột để đỡ mái kia, để chống giữ mái còn lại, 
nhưng cả hai cây cột cũng phải được dùng đến. Thế nên trong trình tự để quan 
niệm nhận thức tánh không (nyat) trở thành Pháp thân Phật, cần nhất cho nó là 
phải có toàn bộ nguyên nhân thiết yếu để phát sinh một Sắc thân. 
MIKE AUSTIN: 
làm thế nào để phương tiện từ bi và trí huệ tánh không (nyat) được hoàn toàn 
đồng nhất với nhau? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Trong Viên mãn thừa,[33] có sự mô tả về trí huệ và phương pháp kết hợp. Ví 
dụ, trước khi hành giả đi vào tu tập định lực đẳng trì về tánh không (nyat), 
hành giả phải phát nguyện tu tập đạt đến giác ngộ vì tâm nguyện muốn cứu vớt mọi 
chúng sinh (altruism). Thế nên tu tập định lực đẳng trì sẽ được kết hợp với động 
cơ là tâm từ bi. Cũng vậy, khi hành giả tu tập hạnh từ bi–như bố thí, v.v..., 
thì những điều này nên được kết hợp với động lực của tâm trực nhận tánh không 
(nyat). Thế nên trong phương pháp này, có sự hợp nhất cuả trí huệ và phương 
tiện, phương diện này ảnh hưởng đến phương diện kia. 
Trong Man-tra thừa, có sự hợp nhất giữa phương tiện 
và trí huệ trong tâm thức, và còn là khía cạnh sâu thẳm hơn về sự hợp nhất trong 
Vô thượng Du-già Tan-tra.[34] 
MIKE AUSTIN: 
Trong tâm chư Phật, tính diệu lạc được hợp nhất với điều này như thế nào? 
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vâng, Có cảm nhận về sự hợp nhất. Trong tâm niệm 
của chư Phật, mọi hiện tượng đều là trình hiện thanh tịnh, và là trình hiện diệu 
lạc. Từ quan niệm riêng cuả ngài, bây giờ, liệu đau khổ có hiện hữu trong Đức 
Phật không? Vâng, có. Nhưng từ quan niệm riêng của các ngài, là do sự thể hiện 
của nó trong những người khác đang chịu khổ đau. Trình hiện tồn tại trên cơ sở 
tự tính có diễn ra trong Đức Phật không? Vâng, có. Nhưng không phải từ quan niệm 
riêng của Đức Phật, mà qua cách trình hiện đối với một người không thể từ bỏ 
được sở tri chướng. 
 Nay thì, 
trình hiện tồn tại trên cơ sở tự tính có hiện hữu, nói chung là có. Có những sự 
kiện hiện hữu, và sự hiện hữu của đối với Đức Phật không có gì mâu thuẫn. Do 
vậy, bất kì mọi hiện hữu đều phải là trình hiện đối với Đức Phật, nhưng không 
nhất thiết phải hiện hữu từ quan niệm riêng cuả ngài. Thông qua năng lực trình 
hiện của nó đối với các hiện tượng khác và chỉ qua đó mà nó được trình hiện. 
 
[1] E: aeon, s: Kalpa; 
[2] 
A-tì-đạt-ma câu-xá luận 阿 
達 
舍 
論; S: abhidharmakoa-stra, thường được gọi tắt là Câu-xá 
luận, nghĩa là ‘Báu vật của A-tì-đạt-ma’, Thông minh luận (通 論); Bộ 
luận quan trọng nhất của Nhất thiết hữu bộ, được Thế Thân (s: vasubandhu) soạn 
vào thế kỉ thứ 5 sau Tây lịch tại Kashmir. Luận gồm có hai phần: sưu tập khoảng 
600 kệ A-tì-đạt-ma câu-xá luận bản tụng (s: abhidharmakoa-krik) và A-tì-đạt-ma 
câu-xá luận thích (abhidharmakoa-bhya), bình giải về những câu kệ đó. Nay còn bản tiếng Hán và tiếng Tây Tạng của luận này. 
 
[3] Theo phương pháp 
tính toán của Anh, Đưc; billion là môt nghin ti (million millions ) tức là 
1,000,000,000,000. Còn phương pháp tính toán của My, Pháp là môt ti (thousand 
millions), hay 1,000,000,000.
 
[4] Tứ đại; e: four elements. Mật 
tông quan niệm có 5 yếu tố (Ngũ đại–Địa, thủy, hoả, phong, Không). Kinh Nhân 
Vương quyển thượng Kinh A-hàm, và Thiên Thai sớ đề cập đến 6 
yếu tố (Lục đại–Địa, thủy, hoả, phong, Không, Thức) tạo nên pháp giới. Trong 
Kinh Thủ-lăng-nghiêm, Đức Phật lại nói đến Thất đại ( Địa, thủy, hoả, phong, 
Không, Thức và Kiến) 
[5] e: world system. 
Theo thế giới quan Phật giáo, Thế giới hệ nghĩa là một hệ thống thế giới. Là cõi 
giới, quốc độ của một Hóa thân Phật giáo hóa chúng sinh. Đối chiếu Thế giới hệ 
như vậy với các thiên hà trong thiên văn. Nhưng thế giới hệ chỉ là Đại thiên thế 
giới (Tam thiên đại thiên thế giới), chưa phải Hoa tạng thế giới hay Thế giới 
chủng. 
 
 
 
[6] Tỉ lượng–Hiện lượng–Thánh giáo lượng–Tri lượng. 
[7] Viết tắt từ 
Deoxyribo-nucleic Acid: câu tư cơ ban cua tê bao di truyên. Một hoá chất được 
tìm thấy trong mỗi tế bào của mọi sinh thể, nó chứa dựng những thông tin về gene 
di truyền. 
(Macmillan Publishers Ltd. 2003)
 
[8] E: meditative stabilization.
Tức 
chánh định (samadhi), 
hoặc chánh thọ. Kinh Thủ-lăng-nghiêm gọi là định huệ quân đẳng. 
[9] Sự thực quy ước, thế đế, tục đế.
[10] Sự thực tuyệt đối. Chân đế. Thắng nghĩa đế. 
[11] Pháp Xứng ẵ ; S: dharmakrti; Một trong 
những Luận sư quan trọng nhất của triết học đạo Phật, đại điện quan điểm của Duy 
thức tông (vijnavda) và Nhân minh học (s: hetuvidy), sống trong thế kỉ thứ 7 (~ 
600-650) tại Nam Ấn ộ và là môn đệ của Hộ Pháp (dharmapla) tại Na-lan-đà Sư viết 
nhiều luận giải nhưng quí giá hơn hết là các tác phẩm về Nhân minh học Phật 
giáo. Trong lĩnh vực này, truyền thống Tây Tạng có giữ lại bảy tác phẩm của Sư, 
được gọi chung là Pháp Xứng nhân minh thất bộ, là luận lí học nền tảng của Phật 
giáo Tây Tạng (tất cả đều chưa được dịch ra Hán ngữ).
 
[12] Nguyệt Xứng ; S: candrakrti; tk. 6/7; ược xem là Luận sư quan trọng nhất 
trong tông Trung quán sau Long Thụ. Sư quê ở 
Nam
Ấn, xuất gia từ lúc nhỏ tuổi. Nhân lúc đọc trứ tác của Long Thụ, Sư bỗng hiểu ý. 
Sau, Sư trở thành viện trưởng của Na-lan-đà và viết nhiều bài luận chú về các 
tác phẩm của Long Thụ. Các tác phẩm quan trọng của Sư là Minh cú luận ( 論; 
nguyên bản Phạn ngữ), Nhập trung quán luận ( 觀 論). Tương truyền rằng, trong một 
cuộc hành trình truyền Pháp về hướng Nam, Sư đã giáo hoá rất nhiều người. 
Sư sống rất thọ, nhưng chắc chắn là không thọ đến 300 (!) tuổi như sử sách Tây 
Tạng thuật lại.
 
[13] 
Nhà sử học nổi tiếng của Tây Tạng là Bố-đốn (t: buston) có ghi lại về luận giải 
này: Sau khi Sư viết và trình bày Lượng thích luận (s: 
pramavarttika-krik) và -chú (-vtti), nhiều người không hiểu nổi. Những người 
hiểu được thì trở nên ganh tị, tuyên bố rằng, tác phẩm này không đúng. Họ lấy 
dây buộc bài luận này vào lưng một con chó và cho nó chạy rong ngoài đường, với 
kết quả là những trang luận này bay tung toé khắp nơi. Thấy cảnh tượng này, Sư 
tuyên bố rằng: ‘Con chó sẽ chạy đến khắp nơi và truyền bá tác phẩm này toàn thế 
giới’.
[14] Tông-khách-ba
 ; T: 
tsong-kha-pa; 1357-1419;
Lạt-ma 
Tây Tạng, nhà cải cách lừng danh của Phật giáo tại đây. Sư sáng lập tông phái 
Cách-lỗ (t: gelugpa), với một trong những giáo pháp quan trọng nhất của Phật 
giáo Tây Tạng. Sư sinh ra trong lúc các Tạng kinh tại Tây Tạng đã soạn xong 
nhưng Sư chủ trương soát xét lại toàn bộ kinh điển và tổng kết thành quả của 
mình trong hai tác phẩm chính: Bồ-đề đạo thứ đệ (t: lamrim chenmo) và 
Chân ngôn đạo thứ đệ (t: ngagrim chenmo).
[15] Mã Minh 馬 鳴; 
S: avaghoa; Nhà thơ và luận sư ại thừa người Ấn ộ, sống giữa thế kỉ 1 và 2, được 
xem là một trong những luận sư quan trọng nhất của Phật giáo. Tác phẩm quan 
trọng nhất của Mã Minh là bộ Hi khúc Xá-lị tử, Phật sở hạnh tán, một tác phẩm 
diễn tả cuộc đời đức Phật, bộ Tôn-già-lợi Nan-đà. Sư cũng là tác giả của bộ 
ại thừa khởi tín luận.
 
[16] S: triyna; Tam thừa ( );
Ba cỗ xe đưa đến Niết-bàn, đó là Thanh văn thừa (聲 聞 
; s: rvakayna), ộc giác thừa ( 覺 ; s: pratyekayna) và Bồ-tát thừa (菩 薩 ; s: 
bodhisattvayna). ại thừa gọi Thanh văn thừa là Tiểu thừa (s: hnayna) với quả vị 
A-la-hán (s: arhat) là mục đích, ộc giác thừa là Trung thừa (s: madhyamyna) với 
quả vị ộc giác Phật. Bồ-tát thừa được xem là ại thừa (s: mahyna) vì có thể cứu 
độ tất cả chúng sinh và hành giả có thể đắc quả cao nhất là Vô thượng chính đẳng 
chính giác (s: anuttarasamyaksabodhi).
Trong 
kinh Diệu pháp liên hoa (s: saddharmapuarka-stra), đức Phật nói rằng ba 
cỗ xe nói trên cũng chỉ là thành phần của một cỗ xe ( Nhất thừa) và được chỉ dạy 
tuỳ theo khả năng tiếp thu của các đệ tử. Ba thành phần này được so sánh với ba 
cỗ xe được kéo bằng dê, hươu và bò
[17] Hộ Thần phổ biến nhất là Quán Thế Âm (t: chenresi), 
vị nữ thần a-la (s: tr) và những vị được truyền trong các bộ Tan-tra cực 
kì bí mật 
[18] Chu-cô T: tulku [sprul-sku]; S: nirmakya; được dịch âm từ tiếng Tây Tạng. 
Thuật ngữ này có nguồn gốc từ tiếng Phạn và Mông Cổ. Tại Mông Cổ, người ta sử 
dụng hai danh từ tương ưng với ý nghĩa gần như nhau là: 1. Hô-tất Lặc-hãn 
(hoblighan khublighan) với nghĩa Tự tại chuyển sinh và 2. Hô-đồ Khắc-đồ 
(khutuktu), nghĩa là Minh tâm kiến tính, sinh tử tự chủ . Danh từ Phạn ngữ 
(sanskrit) tương ưng là Nirmakya, Hán dịch là Ứng hoá thân hoặc Hoá thân.
Tại Tây 
Tạng, danh từ này chuyên chỉ các dòng tái sinh (s: jtimla) và các vị tái sinh, 
chỉ các vị khi chết không quên bản tính, đầu thai trở lại và tiếp nối sự việc 
hoằng hoá trong đời trước. ó là những người được công nhận là sự tái sinh từ một 
người đã chết, sau khi được thử thách kiểm nghiệm. Quan điểm này phát sinh từ 
giáo pháp Ba thân và được áp dụng tại Tây Tạng với sự phát hiện Cát-mã-ba (t: 
karmapa) thứ 2, Cát-mã Ba-hi (karma pakshi, 1204-1283). Chu-cô là một phương 
tiện quan trọng nhằm giữ vững sự nối tiếp bất đoạn về tinh thần và lãnh đạo 
trong các trường phái Tây Tạng. Tây Tạng có 4 dòng tái sinh lớn mà dòng quan 
trọng nhất là ạt-lại Lạt-ma. Ngoài ra có một số lớn các dòng tái sinh khác. Các 
vị Chu-cô thường được dân chúng tôn là ‘Phật sống’ (Hoạt Phật).
Kinh điển 
ại thừa đã nói đến khả năng chủ động trong sự tái sinh. Người bình thường vì 
chưa đoạn được vọng niệm, còn bị thần thức lôi cuốn, theo Nghiệp (s: karma) mà 
chuyển sinh, không tự tại. Còn các vị đã cắt đứt vọng niệm, đã đoạn ô nhiễm thì 
chứng ngộ được Pháp tính (s: dharmat), không còn bị nghiệp lực lôi cuốn trôi nổi 
mà ngược lại, có thể tự chủ được sinh tử, tuỳ cơ ứng biến hoằng hoá, trải qua ải 
tái sinh mà không bị mê hoặc. ó là khả năng của các vị Bồ Tát đã đạt địa vị thứ 
tám trong Thập địa. Cùng với quan điểm Ba thân (s: trikya), trong đó thân người 
được xem là hiển hiện của Pháp thân (s: dharmakya), quan niệm này là cơ sở của 
hiện tượng Chu-cô.
sinh quan 
trọng nhất thời nay là ạt-lại Lạt-ma thứ 14 ăng-châu Gia-mục-thố (t: tenzin 
gyatso, sinh 1935), giáo chủ dòng Cách-lỗ (t: gelugpa).
[19] Trillion. (Anh) 
môt ty ty, môt triêu triêu triêu; (My) môt nghin ty, môt triêu triêu
 
[20] Tha tâm thông. Thiên nhãn thông, thần túc thông, thiên nhĩ 
thông, túc mạng thông. 
[21] Đức Phật có đủ Lục thông, là 5 thứ trên và Lậu tận thông.
[22] Tương đương học 
vị Tiến sĩ Phật giáo. 
[23] Nagarjuna's 
Treatise On The Middle Way.
[24] four consciousnesses : Chuyển thức thành trí. 
[25] Aryadeva's Four Hundred. 
Thánh 
Thiên; S: ryadeva; cũng được gọi là ề-bà, Ka-na ề-bà, ơn nhãn ề-bà (s: kadeva); 
Học trò của Long Thụ (ngrjuna) và ại 
luận sư của Trung quán tông (s: mdhyamika), tác giả của nhiều bộ luận. Người ta 
cho rằng Thánh Thiên sinh trong thế kỉ thứ 3 tại Tích Lan và là Tổ thứ 15 của 
Thiền Ấn ộ dưới tên ‘ề-bà một mắt’ (kadeva). Tương truyền Sư bị ngoại đạo chống 
đạo Phật giết. Ngày nay, tác phẩm của Sư chỉ còn được giữ lại trong các bản dịch 
tiếng Hán và Tây Tạng, phần lớn là các luận đề về giáo pháp của Long Thụ. Truyền 
thống Tan-tra xem Sư là một trong 84 vị Ma-ha Tất-đạt (s: mahsiddha).
Tứ bách luận
(catuataka) gồm 400 câu kệ, với suy luận biện chứng phủ định, giải thích giáo 
pháp Vô ngã và tính Không. Tập
Bách luận (atastra) được xem là bản thu gọn lại của Tứ bách luận, cũng 
gây ảnh hưởng lớn trong Phật giáo. Trong tập Bách luận, Thánh Thiên đã 
đưa nhiều luận giải đối trị các quan điểm bài bác Phật giáo. Bách luận là 
một tác phẩm căn bản của Tam luận tông tại Trung Quốc
[26] Samantabhadra.
阿 ; S: 
dibuddha (A-đề Phật); dịch nghĩa là Bản sơ Phật , tức là Đức Phật cội nguồn; còn 
gọi là Phổ Hiền (s: Samantabhadra). Trong Kim cương thừa, Phổ Hiền (s: 
Samantabhadra) là chỉ cho Bản sơ Phật (s: di-buddha), hiện thân của Pháp thân 
(s: dharmakya; Ba thân). Phổ Hiền này được vẽ với màu xanh đậm, tượng trung cho 
tính Không (không phải là Bồ-tát). Tranh tượng cũng vẽ Ngài hợp nhất với nữ thần 
sắc trắng, tượng trưng cho sự nhất thể. Trong phép ại thủ ấn (s: mahmudr), thân 
của Phổ Hiền là Báo thân (s: sabhogakya) và đóng vai trò trung tâm.
 
[27] Shantideva's Engaging in the 
Bodhisattva's Deeds 
[28] Dharmakirti's Commentary on 
Dignaga's "Compendium on Valid Cognition." 
[29] Bát-nhã ba-la-mật-đa Tâm Kinh. Bản dịch tiếng Hán của ngài Huyền 
Trang. 
[30] S: dharmat; p: dhammat; tib: chos-id
[31] Căn bản trung quán luận tụng (s: mlamadhyamaka-stra-krik) Tác 
phẩm chính luận giải về Trung quán.
[32] white and red constituents
[33] Ba-la-mật-đa thừa. 
[34]
Truyền thống Tây 
Tạng chia Tan-tra làm bốn loại để tương ưng với căn cơ của từng người:
1. Tác tan-tra (s: kriy-tantra): Tan-tra 
hành động (tác), nghi lễ. Người tu tập Tan-tra này có kết đàn trường, cúng dường, 
đọc chú, bắt ấn nhưng chưa quán tưởng, tu tập thiền định;
2. Hành tan-tra (s: 
cary-tantra): Tan-tra tu luyện qua hành động hằng ngày, dành cho những người tu 
tập nhưng không cần hiểu rõ lí tột cùng;
3. Du-già tan-tra (s: 
yoga-tantra): Tan-tra luyện tâm (thiền định);
4. Vô thượng du-già tan-tra (s: 
anuttarayoga-tantra): phương pháp tu luyện tột cùng, thành Phật trong kiếp 
này, với thân này.
Sự khác nhau giữa bốn cấp 
này xuất phát từ căn cơ của hành giả và tính hiệu quả của các phép tu. Các tác 
phẩm quan trọng của Vô thượng du-già tan-tra là Bí mật tập hội 
tan-tra (s: guhyasamMike Austin-tantra), Hô kim cương 
tan-tra (s: 
hevajra-tantra) và Thời luân tan-tra (s: klacakra-tantra).