
 
Nơi đây miền đất Phật.  Có một thời 
bừng nở đóa Vô Ưu.  Bước chân Phật đi về không dấu hạn.  Hai ba nghìn năm gỗ đá 
thành mây bay.  Đường em đi miên viễn dặm dài.  Áo Nghĩa Thư sương khuya trăn 
trở.  Dấu Như Lai là hư không dấu ái.  Ngày em về dấu ái thành hư không. Thu 
vắng quá nên trần gian hóa giải.  Nên mùa Thu nơi vườn Lâm Tỳ Ni bầy hạc trở về.  
Chỉ có lầu vàng là hạc một lần đi không trở lại.  Và chỉ có đồng xa là hai con 
hạc trắng bay về …
 
Vườn Lâm Tỳ Ni mùa hạc về làm tổ.
Người xưa bắt hạc đứng trên lưng 
rùa.  Đầu đội đèn chân cột trói vào mảnh linh hồn bé nhỏ.  Giống hạc, giống 
người bên nhau mà xa nhau về khổ.  Hạc không nhà nên tự do bay đi mười phương 
phiêu du.  Người có nhà, có cả lâu đài đeo mang như gánh nặng.  Hạc về làm tổ 
nơi vườn Lâm Tỳ Ni như làm nhà ở đó.  Người về chiêm bái nơi vườn Lâm Tỳ Ni cho 
đến khi bóng tối quay về thì không còn ai nán lại trầm tư.  Có một đêm khuya 
Phật bỗng hiện về.  Chỉ có bầy hạc nhướng cổ cao nhìn hào quang sáng chói như 
mặt trời.  Phật mỉm cười im lặng vì hạc là chúng sanh không nhiều lời.  Hạc thấy 
Phật trong đêm tối rạng ngời.  Bóng tối trong mắt người, chỉ có vườn cây khuất 
lấp.  Người cầu nguyện nhiều lời nên bỏ quên mình mà sống với ai.  Phật mỉm cười.  
Không thấy.
 
Hết mùa ở tổ hạc lại ra đi - Từ giã 
vườn Lâm Tỳ Ni.
Cứ tiến tới xoải cánh đời vô định. 
Chim thiên di bốn biển là nhà.  Bầy hạc nhỏ mà niềm vui như Hy Mã.  Không phụ 
đời ta sống chính trong ta.  Thu năm sau bầy hạc về chốn cũ.  Lâm Tỳ Ni người 
mới đã xa người.  Thương bạn cũ có bao người đã khuất.  Núi xa vời đỉnh tuyết 
vẫn màu tươi. 
                                                                   
Trenton, Thu 2010
Trần Kiêm Đoàn