Năm 
        1963 ông tham gia công tác Bộ Ngoại giao và lãnh sự Cộng hòa 
        liên bang Ðức, phục vụ ngành ngoại giao và lãnh sự của 
        Tây Ðức tại Calcutta (Ấn), Rangoon (Miến), Chicago (Mỹ) và 
        Colombo (Srilanka). Trong nhiều năm, ông đã đảm trách văn phòng 
        Ấn Ðộ tại Bộ Ngoại giao Ðức quốc. Hiện nay (1989), ông 
        là Tổng lãnh sự của CHLB Ðức tại Bombay (Ấn).
        Trong suốt mười bảy 
        năm ở Á Châu, Tiến sĩ Schumann đã viếng thăm tất cả 
        mọi nơi chốn liên hệ đến cuộc đời Ðức Phật và 
        thuyết giảng đạo Phật tại Ðại học Bonn. Các tác phẩm 
        gần đây nhất của ông là: "Buddhism: An Outline of Its 
        Teachings and Schools" (Ðạo Phật: Sơ Lược Các Giáo Lý và 
        Tông Phái, 1973), quyển này trong bản dịch tiếng Ðức đã 
        được in năm lần, và một quyển sách hướng dẫn về 
        tranh tượng Phật Giáo Ðại Thừa và Mật Tông là quyển 
        "Buddhist Imagery" (Tranh Tượng Phật Giáo, 1986).
        Quyển "Ðức Phật 
        Lịch Sử" này phối hợp một công trình nghiên cứu uyên 
        thâm về Kinh Tạng Pàli cũng như lịch sử Ấn Ðộ và tính 
        cách quen thuộc thân thiết với môi trường Ấn Ðộ của 
        vị học giả này.
        
        Nhà xuất bản Arkana 
        (1989)
        
        
        Lời 
        Giới Thiệu
        Tác phẩm "Ðức 
        Phật lịch sử" là một công trình nghiên cứu uyên thâm 
        do tiến sĩ H. W. Schumann, một nhà Ấn Ðộ học người Ðức 
        biên soạn và xuất bản đầu thập niên 90, sau 17 năm sống 
        tại Ấn Ðộ để nghiên cứu đạo Phật và du hành khắp vùng 
        đã in dấu chân hoằng hóa của đức Phật cách đây 2500 năm. 
        Tác phẩm này giới thiệu bậc Ðạo sư như một vĩ nhân 
        trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã đem niềm lại 
        niềm tự hào cho đất nước Ấn Ðộ trước lòng ngưỡng 
        mộ của thế giới Ðông Phương cũng như Tây Phương trong 
        bao thế kỷ qua.
        Ðó là hình ảnh của 
        bậc Ðạo sư giản dị nhưng trí tuệ siêu việt, đã 
        thuyết giảng giáo lý Trung Ðạo được thiết lập trên 
        nền tảng vững chắc của Bốn Chân Lý Vi Diệu và Mười 
        Hai Nhân Duyên, đưa ra một nhân sinh quan và vũ trụ quan 
        mới cho xã hội Ấn Ðộ mang cổ đại truyền thống Vệ-đà 
        hàng ngàn năm trước đã gây bao nỗi chán nản thất vọng 
        cho những người mong cầu các kinh nghiệm tâm linh như thật 
        đem lại ánh sáng Giác Ngộ Chân Lý.
        Bước đường hành đạo 
        của đức Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ 
        cổ đại được minh họa bằng các trích đoạn kinh kệ 
        từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa lẫn thi 
        vị, cùng một số địa đồ đầy đủ chi tiết các vùng 
        đất xưa từng ghi dấu chân đức Phật Thế Tôn, từ vườn 
        hoa Lumbini, nơi ngài đản sanh cho đến rừng Sàli ở Kusinàrà, 
        nơi ngài viên tịch trong Niết-bàn tối hậu.
        Phật giới học xưa 
        nay đã quen thuộc với hình ảnh đức Bổn sư qua bao kinh điển 
        cùng các tác phẩm nghiên cứu bình luận của nhiều học 
        giả khắp thế giới, nhưng phần lớn các hình ảnh ấy đã 
        được ít nhiều thần thoại hóa hay tiểu thuyết hóa theo 
        quan điểm của mỗi soạn giả. Còn đặc điểm của tiến 
        sĩ H. W. Schumann là đã dày công nghiên cứu và xây dựng hình 
        ảnh của đấng Giác Ngộ như một người sống thật của 
        Ấn Ðộ, với những nhận xét khách quan của một học 
        giả nghiên cứu có hệ thống rõ ràng theo phương pháp khoa 
        học. Cái nhìn của học giả H. W. Schumann về đức Phật có 
        vẻ khác lạ với quan niệm về đức Phật của Phật tử 
        Việt Nam, nhưng đó chính là điều bổ ích làm tăng giá 
        trị của quyển sách trong sự đóng góp vào kiến thức 
        Phật học của tôn giả cùng Phật tử Việt Nam.
        Riêng tôi được đọc 
        sách này qua bản dịch tiếng Anh của ông M.O'C. Walshe, người 
        mà tôi đã gặp và làm việc chung tại Luân Ðôn trong Giáo 
        Hội Tăng Già Anh Quốc (English Sangha Trust) nhiều năm qua. Ông 
        Maurice Walshe là người Anh gốc Ðức, một nhà Phật học 
        nổi tiếng, đã dịch quyển "Ðức Phật Lịch Sử" 
        này; vì vậy quyển sách không những có giá trị về phương 
        diện ngôn ngữ do sự hợp tác của soạn giả và dịch 
        giả trong sự hiểu biết thấu đáo về Phật giáo nguyên 
        thủy cùng ngôn ngữ Ðức-Anh.
        Nhận thấy tác phẩm này 
        có công dụng thực tiễn phương diện nghiên cứu Phật 
        học rất cần thiết cho Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt 
        Nam và giới Phật tử Việt Nam trong giai đoạn hiện tại, tôi 
        giao phó việc phiên dịch tác phẩm sang tiếng Việt cho cư sĩ 
        Nguyên Tâm Trần Phương Lan, giáo sư phụ trách môn Anh 
        Văn Thuật Ngữ Phật học tại Học Viện Phật Giáo Việt 
        Nam, Thành Phố HCM, cũng là một dịch giả của Bộ Jàtaka 
        (Kinh Bổn Sanh hay Chuyện Tiền Thân Ðức Phật) thuộc Tiểu 
        Bộ Kinh, tạng Pàli, một tác phẩm đắc sắc thấm đậm 
        truyền thống phong tục xã hội đời thường ở cổ Ấn Ðộ 
        từ thời đức Phật tại thế cùng Thánh chúng của ngài 
        cho đến vài thế kỷ sau qua những câu chuyện đầy tình người 
        hòa lẫn hương đạo.
        Với niềm mong muốn các 
        giới nghiên cứu Phật học Việt Nam đón nhận một quyển 
        sách có giá trị mới ra đời, cùng cống hiến cho Phật 
        tử và độc giả Việt Nam một công trình nghiên cứu thấu 
        đáo.
        Chúng tôi xin trân 
        trọng giới thiệu dịch phẩm "Ðức Phật Lịch 
        Sử".
        
        Xuân Ðinh Sửu, 1997
        Phó Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam
        Tỳ-kheo Thích Thiện Châu
        
        
        Lời Tựa 
        Của Tác Giả
        Thật hiếm nhân vật 
        trong lịch sử tư tưởng nhân loại từng có ảnh hưởng 
        rộng lớn và lâu dài như đức Phật Siddhattha Gotama, và cũng 
        không ai từng để lại dấu ấn sâu đậm trên toàn Châu Á 
        như ngài. Ðạo giáo do ngài sáng lập không chỉ đem lại 
        nguồn an ủi cho vô số người mà còn cung cấp nền tảng 
        học thuyết nhân bản cao thượng và một di sản văn hóa vô 
        cùng tế nhị. Bài thuyết pháp đầu tiên do đức Phật 
        dạy tại Lộc Uyển (Sàrnàth) gần Benares năm 528 trước CN 
        là một sự kiện lớn đem lại những kết quả đầy lợi 
        lạc liên tục mãi đến thời đại này.
        Nhan đề "Ðức 
        Phật Lịch Sử" nói lên cả chủ điểm của quyển 
        sách cùng các giới hạn phạm vi của nó. Sách này không đề 
        cặp các đức Phật phi lịch sử trong quá khứ và tương 
        lai vẫn thường được nhắc đến qua Kinh Ðiển Phật giáo; 
        nó cũng loại bỏ các truyền thuyết hoang đường bao phủ 
        quanh cá nhân của đức Phật lịch sử, ngoại trừ những 
        điểm có thể tìm thấy tính chất lịch sử trong đó. Sách 
        này bàn đến con người với những đặc tính phi thần 
        thoại của một bậc Ðạo Hiền Trí, cùng với thời đại 
        ngài sinh trưởng và hoàn cảnh chính trị xã hội đã tạo 
        điều kiện cho ngài thực hiện sứ mạng cao cả đưa đến 
        thành công như vậy.
        Vì trước đây đã có 
        nhiều sử sách về cuộc đời đức Phật, nên một quyển 
        lịch sử mới ra đời cần có sự minh chứng rõ ràng. Ðiều 
        này nằm trong sự thật là ngành Ấn Ðộ học ở cương 
        vị một khoa học cuối cùng đã chịu bước ra khỏi tháp 
        ngà từ hai thập niên vừa qua và giờ đây chuyển hướng 
        nhìn theo cách quan sát kỹ các đại tư tưởng gia Ấn Ðộ 
        trong bối cảnh các biến cố của thời đại cùng môi trường 
        xung quanh các ngài. Thời đại đức Phật, khoảng thế kỷ 
        thứ sáu đến thế kỷ thứ năm trước CN, đã được soi 
        rọi trong một làn ánh sáng mới mẻ, kết quả của nhiều 
        cuộc nghiên cứu đầy công phu vừa qua.
        Giờ đây đức Phật 
        không còn được nhìn như một thánh nhân đang du hành trên 
        hư không, ta có thể nói như vậy, mà là một nhà sáng lập 
        đầy trí tuệ về mọi vấn đề thế gian, đã hiểu biết 
        cách tận dụng các hòan cảnh chính trị với tài năng lãng 
        đạo có kế hoạch tinh xảo, quả thật, giống như một nhân 
        vật có thể sánh với đệ nhất vĩ nhân trong thời hiện 
        đại là Mahàtma Gandhi (bậc Ðại trí Gandhi), một người đã 
        hoàn thành xứ mạng của mình không chỉ vì đó là một người 
        Ấn Ðộ có đức độ thành tín mà còn là một luật sư 
        xuất chúng và là một tư tưởng gia có một đầu óc thực 
        tiễn.
        Không có thời kỳ nào 
        trong lịch sử thực sự là thời đại "cổ sơ hoàn 
        hảo" cả, và thời đức Phật cũng không phải là 
        ngoại lệ như đã được chứng tỏ qua sự quan tâm của dân 
        chúng đến các tân học thuyết về giải thoát mới xuất 
        hiện. Chúng ta muốn công bằng nhận xét thuở đó như một 
        thời đại con người không khác chúng ta về trí thông minh 
        cũng như về tiêu chuẩn đạo đức, nhưng chỉ có một 
        thế giới quan khác ta, và ít có quyền năng kỹ thuật đối 
        với các sức mạnh thiên nhiên mà thôi. Còn con người 
        thời ấy cũng bị các dục vọng chi phối giống hệt như 
        chúng ta ngày nay vậy.
        Nhiều người theo đạo 
        Phật đôi khi chủ trương rằng cá nhân đức Phật không 
        quan trọng, vì rằng không phải các sự kiện thoáng qua 
        trong quãng đời ngài, mà chính toàn thể giáo lý vượt 
        thời gian của ngài mới đáng cho chúng ta chú tâm. Cũng có 
        vài điều cần bàn về quan điểm này, và quả thực chúng 
        ta đặt đức Phật ra ngoài hệ thống giáo lý của ngài mà 
        không loại trừ một yếu tố căn bản nào trong đó. Song 
        về phương diện khác, mỗi quan điểm triết lý là một cách 
        giải thích chứng minh hợp lý thái độ tinh thần của tư tưởng 
        gia sáng tạo ra nó. Một người khác hay một người cùng 
        ở trong các hoàn cảnh khác nhau đã có thể phát triển thái 
        độ tâm lý khác và do vậy có thể lý luận cách khác, nghĩa 
        là người ấy có thể suy tư cách khác. Như thế, người sáng 
        lập hệ thống giáo lý xứng đáng được quan tâm như một 
        cá nhân trong bối cảnh thời đại của vị ấy, nhất là 
        đối với con người Phương Tây vẫn thường suy nghĩ theo tương 
        quan lịch sử; đối với họ. Phương pháp đạt một tri 
        kiến toàn diện cũng đáng chú ý như Thực chất của nó 
        vậy.
        Hệ thống tôn giáo 
        triết lý hướng đến giải thoát mà đức Phật thuyết 
        giảng cho người Ấn Ðộ đương thời trong vòng 45 năm hành 
        đạo của ngài được phát họa ở đây trong hình thái cổ 
        sơ nhất từng được biết đến. Còn các độc giả nào 
        muốn tìm hiểu những sự phát triển về sau của giáo lý 
        đức Phật cần tham khảo một sách khác của tôi: 
        "Buddhism, An Outline of Its Teachings and Schools" (Ðạo 
        Phật: Sơ Lược Các Giáo Lý và Tông Phái), NXB Rider, London.
        Vì trong sách biên 
        khảo này chúng tôi không quan tâm đến các chi tiết triết 
        lý, mà chỉ chú trọng các mối tương quan hoặc sự kiện 
        lịch sử của cá nhân, nên khả dĩ chấp nhận việc nêu ra 
        các lời dạy của bậc Ðạo Sư trong hình thức giản lược 
        hoặc diễn dịch cho dễ hiểu. Như thế lời dạy có thể 
        sinh động hơn là được trình bày theo lối văn thánh điển 
        thường trùng lập, đó là sản phẩm của nhiều đại hội 
        Tăng chúng duyệt Kinh Tạng Pàli.
        Kinh điển bằng ngôn 
        ngữ Pàli nguồn quan trọng nhất đối với người viết 
        lịch sử đức Phật, như vậy các danh từ riêng và thuật 
        ngữ Phật học ở đây đều theo tiếng Pàli. Ví dụ: Nibbàna 
        (Pàli) thay vì Nirvana (Sanskrit). Những danh từ hay thuật ngữ 
        khác đều theo hình thức nào thông dụng nhất: Sanskrit, 
        Prakrit Hindì.
        Lẽ ra có thể minh 
        họa sách này với nhiều tranh ảnh hình tượng Phật. Nhưng 
        tôi đã tránh làm điều này vì các ảnh tượng của đức 
        Phật qua nghệ thuật Ấn Ðộ chỉ xuất hiện khoảng bốn 
        thế kỷ rưỡi sau khi bậc Ðạo Sư tịch diệt, không lâu 
        trước CN và chúng tiêu biểu, không phải đức Phật Gotama 
        lịch sử mà là bậc Ðại Siêu Nhân (Mahàpurisa) đã được 
        biến thành huyền thoại thần kỳ. Như vậy việc đưa 
        những tranh ảnh nghệ thuật Phật giáo vào đây có thể 
        tạo nên những yếu tố huyền thoại đã được gạn lọc 
        ra từ đầu. Ðức Phật lịch sử là đức Phật không có 
        hình tượng nào cả.
        Tôi chân thành cảm 
        tạ tất cả những vị giúp tôi thực hiện quyển sách này. 
        Trước tiên là hiền phụ của tôi trong suốt năm năm liền 
        đã dành mọi buổi chiều tối yên lặng làm việc, trước 
        ở Bonn và về sau ở Colombo, vì vậy phải hy sinh nhiều dự 
        án cộng tác khác.
        Tôi cũng hết lòng 
        cảm ơn Thượng Tọa Ðại Trưởng Lão người Ðức, tôn 
        giả Nyànaponika, ở Sơn Lâm Thảo Ðường (the Forest 
        Hermitage), Kandy, Tích Lan, về sự hỗ trợ rất hào hiệp và 
        nỗ lực kiên trì ngài dành cho tôi. Mặc dù bận rộn các tác 
        phẩm văn học của ngài cùng các nhu cầu biên tập của 
        Hội Xuất Bản Phật Học, ngài cũng tìm được thời giờ 
        đọc bản thảo của tôi thật cẩn thận. Những ý kiến bình 
        luận của ngài đã đóng góp rất lớn vào việc cải 
        thiện tính cách chính xác trong vài phần của sách này.
        Cuối cùng nhưng không 
        kém quan trọng, tôi xin tỏ bày lòng biết ơn đối với ông 
        M. O'C. Walshe, người dịch sách này sang tiếng Anh. Dịch 
        giả nguyên là giảng sư đại học môn Văn Chương Ðức 
        Ngữ, Phó Chủ Tịch Hội Phật học ở Luân Ðôn, đã từng 
        dịch bộ Dìgha Nikàya (Trường Bộ Kinh) sang tiếng Anh, và là 
        tác giả nhiều sách khác nữa, quả thật không có ai đầy 
        đủ khả năng hơn để đảm trách công tác phiên dịch này.
        
        H. W. Schumann
      
       -ooOoo-
          
      
 
      Chú 
      Thích Về Bản Niên Ðại
          
      
 
       Ðôi 
      lời giải thích về niên đại của đức Phật lịch sử ghi 
      trong sách này, theo bản niên đại đã được hiệu đính 
      của Tích Lan và đa số chấp nhận, đức Phật đã sống 
      trong khoảng từ 563 đến 483 trước CN. Khuyết điểm rõ ràng 
      của bản niên đại này được nhiều nhà Ấn Ðộ học trước 
      kia công nhận đã khiến Giáo sư P.H L. Eggermont đặt lại 
      vấn đề ấy trong bốn bài báo trên tạp chí Persica giữa năm 
      1965 và 1979, từ đó, ông được Giáo sư Heinz Bechert ủng hộ 
      (trong tạp chí Indoldgia Taurinensia X, 1982). Cả hai học giả đều 
      tin rằng các sử gia viết tiếng Sinhala (Sri-lanka) đều sai và 
      hai vị ghi niên đại của đức Phật vào khoảng 115 năm sau 
      đó. Lý luận của các vị ấy cũng đáng chú ý nhưng cần 
      phải triển khai thêm trước khi chúng được xem là cung cấp 
      chứng cớ cuối cùng và đưa đến một bản mới có thể 
      chấp nhận được được thay vào bản niên đại đã được 
      chấp nhận trước kia. Do đó, tôi chưa chấp nhận chúng, nhưng 
      sẵn sàng để độc giả rút bớt 115 năm từ các niên đại 
      ghi những sự kiện trong cuộc đời đức Phật lịch sử.