Sự thật là vậy:
Thưa đại chúng, ngày xưa khi Đức
 Thế Tôn còn tại thế, ở Ấn Độ có 62 học thuyết. Trong 62 học thuyết đó, 
họ tranh cãi nhau về nhiều mặt, từ mặt hiện thực đến mặt siêu hình, từ 
mặt vật lý đến mặt tâm lý. Lúc bấy giờ, xã hội Ấn Độ cũng có hơn 90 tôn 
giáo đang sinh hoạt và lẽ đương nhiên mỗi tôn giáo đều có mỗi quan điểm 
riêng về cách tu tập, cũng như quan điểm riêng về thần linh của mình.
Có
 một lần, ở trong hội chúng, Đức Phật giảng dạy về nghiệp lực. Đức Phật 
dạy rằng, trong ba nghiệp thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, thì ý 
nghiệp là quan trọng nhất. Ý nghiệp có khởi sinh, có suy nghĩ kỹ càng 
trước khi hành động, thì mới đưa đến thẩm lự tức là phán xét nên làm hay
 không nên làm. Sau khi đã phán xét nên làm hay không nên làm, thì ý 
nghĩ đó mới bắt đầu phát khởi ở nơi thân và ngữ. Như vậy ý nghiệp là chủ
 đạo khiến cho thân và ngữ hành động. Nếu ý nghiệp duyên vào các phiền 
não tham, sân, si, thì thân hành động và miệng mới biểu lộ ra chất tham,
 chất sân, chất si trong đời sống hàng ngày. Nếu ý nghiệp duyên vào các 
thiện tâm như vô tham, vô sân, vô si ở nơi tâm thức của chúng ta, thì 
thân và ngữ mới biểu hiện ra cái vô tham, vô sân, vô si đó trong cuộc 
sống hàng ngày của chúng ta. Bởi vậy, ý nghiệp là quan trọng nhất, nếu ý
 đã nghĩ đến điều ác thì không có điều ác nào mà thân không làm và ngữ 
không nói. Nếu ý đã nghĩ đến điều thiện, duyên vào điều thiện nơi tâm, 
thì không có điều thiện nào mà thân và ngữ không biểu hiện trong đời 
sống hàng ngày của chúng ta. Ở trong hội chúng, Đức Thế Tôn đã rống lên 
tiếng rống sư tử ấy làm khiếp đảm, làm rơi rụng những nhận thức sai lầm 
về nghiệp. Tiếng rống đó động tới các rừng tu, các trung tâm tu học của 
các ngoại đạo thời bấy giờ. Có nhiều vị sôi sục đến tranh cãi với Đức 
Phật. Đức Phật mỉm cười và nói rằng, này hỡi các du sĩ! Các du sĩ nói 
rằng, trong ba nghiệp thì thân nghiệp là quan trọng nhất, vậy du sĩ hãy 
chứng minh cho Như lai nghe. Các du sĩ ngoại đạo đó nói như thế này, Đức
 Cồ Đàm có thấy không? Muốn giết người thì thân giết, thân cầm dao, thân
 đi tìm kiếm và thân đâm, chém, chứ ý nghiệp đâu? Cho nên, trong ba 
nghiệp, thân nghiệp là quan trọng hơn hết. Sau khi nghe tu sĩ ngoại đạo 
trả lời như thế, Ngài mỉm cười, nói rằng, này hỡi các du sĩ! Như Lai 
cũng nghe trong tôn giáo của các bạn dạy rằng, không được giết người, 
không được giết hại chúng sinh. Thế thì, một tu sĩ hay một tín đồ của 
bạn khi ngủ dậy, từ trên giường bước xuống đất đạp kiến chết, đạp những 
loài sâu bọ chết, nếu cần xét xử người đó có phạm tội hay không phạm 
tội, phạm giới giết hay không phạm giới giết, thì quý vị phải xét xử như
 thế nào? Các tu sĩ ngoại đạo trả lời, thưa Đức Cồ Đàm, nếu những tu sĩ 
hay tín đồ của chúng tôi từ trên giường bước xuống, nếu vô ý mà đạp 
những loài chúng sinh chết thì tội nhẹ hơn, còn nếu cố ý mà đạp những 
loài chúng sinh chết thì tội nặng hơn. Đức Phật mỉm cười, Ngài nói, thế 
thì tôi có nói điều gì khác đâu, tôi nói trong ba nghiệp thân, ngữ, ý, 
thì ý nghiệp là quan trọng hơn cả, thì bây giờ đây, quý vị cũng nói 
giống tôi đó thôi, chứ tại sao quý vị lại đến đây để tranh cãi với tôi. 
Quý vị nói, nếu vô ý mà đạp chết các loài chúng sinh thì tội nhẹ, còn cố
 ý mà đạp các loài chúng sinh chết thì tội nặng, như vậy, ý nghiệp là 
chủ ý trong vấn đề tạo nghiệp. Sau đó Đức Phật nói rằng, Như Lai không 
thích tranh cãi với đời, chỉ có đời mới ưa tranh cãi với Như Lai mà 
thôi! Người nào sống đời sống không ưa tranh cãi, thì người đó sẽ có 
hạnh phúc lớn, trong đời sống của người đó vắng bặt tất cả mọi thứ phiền
 não, mọi sự lo âu, mọi sự tranh giành hơn thua. Trong đời sống, người 
nào ưa tranh cãi, thì người đó mất hết sinh lực của sự sống, người đó có
 lo âu, sợ hãi, kẻ nào ưa thắng bại, thì chính kẻ đó đau khổ trước hết. 
Như Lai không tranh cãi với đời, cho nên, Như Lai không có sự khổ đau do
 sự tranh cãi đem lại. Như Lai không ưa tranh cãi với đời, cho nên, sự 
lo âu, sợ hãi về hơn thua không xảy ra trong đời sống của Như Lai. Như 
Lai không ưa tranh cãi với đời, cho nên, sự oán đối giữa cuộc đời không 
có mặt trong đời sống của Như Lai.
Tranh cãi, ưa tranh cãi, tất 
nhiên sẽ có thua và có hơn, người tranh cãi mà hơn thì tâm sinh kiêu 
mạn, tâm sinh tự đắc, tâm sinh tự thị. Cái kiêu mạn, cái tự thị, cái tự 
đắc. Tất cả những cái đó làm cho cuộc đời mình nghèo đi, khổ đau nhiều 
hơn, buồn chán nhiều hơn. Người tranh cãi mà thua, thì mặc cảm, xấu hổ 
sẽ xảy ra trong đời sống của người đó. Như vậy, tranh cãi hơn cũng đau 
khổ, mà tranh cãi thua cũng đau khổ. Muốn thoát ly sự khổ đau, thì phải 
thực tập hạnh không tranh cãi trong đời sống của chúng ta.
· Vô tránh tam muội:
Thưa đại chúng, trong 
những vị đại đệ tử của Đức Phật, Ngài Tu Bồ Đề là một vị đại đệ tử, Ngài
 đã được Đức Phật ca ngợi là vị đệ tử không thích tranh cãi số một. Vì 
sao? Bởi vì, Ngài Tu Bồ Đề tu tập, Ngài đạt được vô tránh tam muội, 
nghĩa là vị đó sống đời sống không tranh cãi, nên, tâm của vị đó luôn 
luôn an trú ở trong chánh niệm, tỉnh giác. Chỉ có an trú trong chánh 
niệm, tỉnh giác, thì chúng ta mới không bị rơi vào tình trạng tranh cãi.
 Nếu tâm không an trú trong chánh niệm, tỉnh giác, thì sân sẽ khởi lên, 
khi sân khởi lên thì sẽ dẫn chúng ta đến với sự tranh cãi. Khi sân không
 khởi lên, thì sự tranh cãi khó mà xuất hiện trong đời sống của chúng 
ta. Tâm luôn luôn an trú trong chánh niệm, tỉnh giác, thì tham không 
khởi lên, tham không khởi lên, thì khó mà đẩy chúng ta đến với chiến 
trường tranh cãi. Chúng ta tranh cãi là do quyền lợi, là do danh, là do 
địa vị, là do quan điểm..., tất cả những tranh cãi đó cũng có gốc rễ từ 
tham mà ra. Người và những loài vật thấp kém do tham ăn nên tranh cãi 
nhau về ăn, ăn thế nào cho ngon, nấu như thế nào cho ngon, uống cái gì 
cho ngon..., tất cả những cái đó đều là sinh hoạt của những loài người 
mang bản năng thấp kém và đương nhiên, sau cuộc tranh cãi đó, nếu không 
chế ngự được, không có chánh niệm, tỉnh giác, thì cuộc hội họp đó trở 
thành ra một bãi chiến trường và sau bãi chiến trường đó, người được, kẻ
 thua đều là nạn nhân của sự khổ đau.
Do đó, một vị tu tập chánh 
niệm, tỉnh giác, đạt được vô tránh tam muội, thì tâm của vị đó luôn an 
trú ở trong chánh niệm, tỉnh giác, cho nên, tham không khởi lên. Tham mà
 khởi lên, thì đương nhiên có sự tranh cãi, kinh doanh tranh cãi theo 
kiểu kinh doanh, buôn bán tranh cãi theo kiểu buôn bán, vua, quan thì 
tranh cãi theo kiểu vua, quan và khi đã tranh cãi thì khổ đau, oán kết, 
hận thù xảy ra. Hạt giống khổ đau, oán kết, hận thù đó sẽ rơi vào tâm 
thức của chúng ta, nó lưu trú ở trong tiềm thức của chúng ta, khi có cơ 
duyên thì nó sẽ bung khởi ra. Bởi vậy, trong hàng đệ tử của Đức Phật, 
Ngài Tu Bồ Đề là một vị được Đức Phật ca ngợi là vị có đời sống không 
tranh cãi, Ngài đã đạt được vô tránh tam muội. Vô tránh tam muội là gì? 
Vô tránh tam muội tức là vị đó có tâm luôn luôn an trú trong chánh niệm,
 tỉnh giác. Vị đó ý thức rất rõ mình đang đứng, đang nằm, ngồi, nói 
năng, tiếp xúc, ý thức rất rõ về mọi động tác của mình, ý thức đó là ý 
thức của chánh niệm, tỉnh giác, chứ không phải ý thức theo kiểu vọng 
thức. Ý thức đó có gốc rễ từ vô si, còn nếu chúng ta có ý thức từ nơi 
si, thì nó sẽ đẩy chúng ta đi tới tà kiến và tranh cãi. Hai người đang 
còn tranh cãi với nhau, ai cũng đang có ý thức cả, nhưng ý thức đó là ý 
thức của si, ý thức của bản ngã, cho nên, ai cũng lựa những lời thật cay
 độc để bắn ra cho đối phương phải gục đầu, gục đầu bằng ngôn ngữ chứ 
không phải bằng vũ khí, ngôn ngữ cũng là một loại súng bắn người, giết 
người một cách khủng khiếp.
Thưa đại chúng, ngày hôm nay, chúng 
ta tu tập chánh niệm, chúng ta quán chiếu thật sâu sắc về hạnh không 
tranh cãi, nhưng có nhiều người nói rằng, dạ bạch Thầy, chúng ta tu mà 
không tranh cãi chi hết thì buồn lắm, phải tranh cãi mới thú vị, như một
 triết gia cận đại đã nói:” Sau sự tranh cãi thì chân lý sẽ bùng vỡ”. 
Tôi đã trả lời rằng, tôi không phải là triết gia, cũng không phải là đạo
 sĩ, tôi chỉ là thầy Thái Hòa thôi, nhưng theo tôi :” Sau sự tranh cãi 
thì khổ đau sẽ bùng vỡ giữa hai bên”. Không phải Đức Phật dạy chúng ta 
tu tập có nghĩa là chúng ta câm, mà Ngài dạy chúng ta phải nói và phải 
nói ở trong chánh niệm. Đức Phật đề nghị chúng ta trình bày, nhưng trình
 bày ở trong chánh niệm, khi người khác trình bày thì chúng ta theo dõi 
hơi thở và lắng nghe thật sâu. Đức Phật không cấm chúng ta trình bày vấn
 đề, nhưng vấn đề đó phải thiết thực, giải quyết được khổ đau của chúng 
ta, còn nếu chúng ta chỉ nêu lên những vấn đề mà đến khi chết rồi chúng 
ta vẫn không giải quyết được, thì không có ích lợi gì cả.
· Hiện thực từ cuộc sống:
Thưa
 đại chúng, ngày xưa có mấy vị đệ tử của Đức Phật, họ đến hỏi Đức Phật 
như thế này:” Dạ bạch Như Lai! Sau khi Ngài chết, Ngài đi về đâu? Thế 
giới này là hữu cùng hay vô cùng? Thế giới này là hữu biên hay vô biên? 
“. Ngài cười và nói rằng, này các tôn giả ơi! Như lai nói cho tôn giả 
như thế này, một người đang bị tên độc bắn vào, việc trước tiên chúng ta
 phải làm gì để cứu người bị tên độc bắn vào? Có nên hỏi rằng, tên độc 
này do ai bắn? Tên độc này được bắn từ đâu? Tên độc này bị tẩm thuốc gì 
mà độc hại như thế? Hay là chúng ta phải tới và nhổ tên độc ra khỏi cơ 
thể người bị bắn, rồi băng bó vết thương lại cho họ. Vị đệ tử nói rằng, 
dạ bạch Đức Thế Tôn, chúng ta nên chạy tới ôm người bị tên độc bắn vào, 
nhổ tên độc ra khỏi cơ thể của họ và bôi thuốc vào cho họ. Đức Phật nói 
rằng, à cũng vậy, bao nhiêu chuyện siêu hình, bao nhiêu chuyện gì Như 
lai cũng biết hết, nhưng mà Như lai không nói, Như Lai chỉ nói những gì 
mang tính hiện thực, giải quyết được vấn đề sinh tử cho chúng sinh. Cũng
 vậy, một người có lương tâm, muốn chửa trị người bị tên độc, thì việc 
trước tiên là phải ôm người trúng độc lại, nhổ tên độc ra và làm thuốc 
cho họ, chứ không phải để người trúng độc quằn quại như vậy, còn mình 
chỉ quan tâm đến tên độc này làm bằng cái gì, tẩm thuốc gì, bắn từ đâu 
và ai bắn, chúng ta cứ ngồi tranh cãi nhau như thế, còn nạn nhân thì đau
 đớn cho đến chết. Cho nên, chuyện không đáng tranh cãi, mà phải giải 
quyết hiện thực. Giáo pháp của Như Lai là giáo pháp hiện thực, giải 
quyết triệt để vấn đề khổ đau cho chúng ta, đem lại sự an lạc triệt để 
cho chúng ta, chứ không phải bàn luận về an lạc, về khổ đau. Giáo pháp 
của Như Lai chỉ thẳng khổ đau và chỉ thẳng phương pháp diệt khổ.
Thưa
 đại chúng, giáo pháp của Đức Phật là giáo pháp giải quyết triệt để khổ 
đau bằng đời sống chứng nghiệm hiện thực, chứ không phải chỉ bằng khái 
niệm. Do đó, khi quý vị tụng Kinh, đọc Kinh, quý vị sẽ thấy rằng, Đức 
Phật không hề lý luận, Đức Phật chỉ đưa ra các hiện pháp chứng nghiệm mà
 Ngài đã đạt được để trao truyền cho chúng ta mà thôi, chứ không phải là
 một mớ kiến thức hay khái niệm được tích lũy. Do Kinh là những gì Ngài 
đã chứng nghiệm được và nói ra cho chúng ta, cho nên, không còn có gì để
 tranh cãi nữa. Do đó, Đức Phật, Ngài luôn luôn an lạc, thảnh thơi, Ngài
 luôn luôn sống thoải mái là bởi vì, trong đời sống Ngài không còn gì để
 tranh cãi nữa.
· Năng lượng thực tập:
Bây
 giờ chúng ta tu tập, chúng ta muốn có đời sống an lạc, hạnh phúc, thoải
 mái trong đời sống của chúng ta, thì chúng ta phải thực tập hạnh không 
tranh cãi. Giả như quý vị đi đến đâu mà người khác muốn đặt vấn đề với 
chúng ta, ưa tranh cãi với chúng ta, nhưng chúng ta chỉ ngồi yên lặng để
 cho họ nói, ngay cả khi người khác chỉ trích chúng ta, chúng ta cũng 
chỉ theo dõi hơi thở và mỉm cười thôi, thì lời chỉ trích của đối phương 
sẽ mất dần hiệu năng. Ngay cả khi họ khen chúng ta, chúng ta cũng ngồi 
tỉnh bơ và theo dõi hơi thở, thì người khen đó cũng không còn dám khen 
tiếng thứ ba. Quý vị hãy thực tập đi, quý vị sẽ thấy, người khác khen 
chúng ta mà không dám khen tiếng thứ ba nữa, chứ đừng nói là chỉ trích 
và khi đó đối phương sẽ thay đổi thái độ ngay tức khắc. Nhưng khi đối 
phương khen chúng ta, mà chúng ta cứ ngúc, ngúc, chúng ta ngúc chừng nào
 thì đối phương sẽ càng nói xảo trá với chúng ta chừng đó. Hoặc khi đối 
phương chỉ trích chúng ta, nhưng chúng ta không làm chủ được tâm ý, mặt 
của chúng ta đỏ bừng lên, đó là lúc chúng ta rơi vào cái bẫy của đối 
phương, khi đó chúng ta bắt đầu tranh cãi, bởi vì đối phương muốn chúng 
ta như thế, nhưng, nếu chúng ta vượt ra ngoài cái bẫy của đối phương, 
chúng ta không tranh cãi, thì đối phương sẽ mất dần nhuệ khí.
Điều
 này quý vị hãy thực tập, quý vị chỉ thực tập trong hai tuần thôi, quý 
vị sẽ thấy kết quả lạ lùng. Chính tôi đã thực tập điều này và tôi đã 
thấy được kết quả đó nơi chính bản thân tôi. Khi chúng ta thực tập sâu 
như vậy rồi, người khác có thích chỉ trích chúng ta, thì họ chỉ trích 
chúng ta sau lưng thôi, họ không dám chỉ trích trước mặt chúng ta nữa và
 khi họ như vậy, thì họ chỉ còn nửa gan mà thôi./.
Thích Thái Hòa