gióng lên và 
		rớt xuống một lần cho thi nhân đợi chờ bao đại kiếp mới hốt nhiên đại 
		ngộ đề thơ.
		
		           
		 Trên 
		chuyến đi về Tây An, chúng tôi viếng chùa Từ Ân, nơi pháp sư Huyền Trang 
		dịch kinh từ 1300 năm trước. Tháp Đại Nhạn, nơi chứa kinh sách dịch 
		thuật của Huyền Trang vẫn còn sáng lên trong nắng mà bao thế hệ con 
		người đã đi qua, qua đi. Trên chuyến bay giã từ Tây An, tôi được bà cụ 
		Nguyên Thanh, một cư sĩ Phật giáo cao niên đồng hành trong chuyến đi cho 
		mượn tập sách
		
		Đường Về Xứ Phật của Hòa thượng Thích Thông Lạc[1].  
		Trước khi trao tay, bà cụ có ý kiến: “Đạo hữu cũng nên có đôi lời nhận 
		định. Tôi quý cái tâm ngay thẳng của Hòa thượng Thích Thông Lạc, nhưng 
		lại e rằng, lời Thầy viết ra quá bộc trực nên không khỏi gây nhiều chao 
		động, nhất là đối với thế hệ Phật tử đàn em của chúng ta.” Cảm nhận sự 
		chân thành trong lời “gởi gắm” của bà cụ Nguyên Thanh, tôi hứa là sẽ 
		viết đôi điều…
Trên 
		chuyến đi về Tây An, chúng tôi viếng chùa Từ Ân, nơi pháp sư Huyền Trang 
		dịch kinh từ 1300 năm trước. Tháp Đại Nhạn, nơi chứa kinh sách dịch 
		thuật của Huyền Trang vẫn còn sáng lên trong nắng mà bao thế hệ con 
		người đã đi qua, qua đi. Trên chuyến bay giã từ Tây An, tôi được bà cụ 
		Nguyên Thanh, một cư sĩ Phật giáo cao niên đồng hành trong chuyến đi cho 
		mượn tập sách
		
		Đường Về Xứ Phật của Hòa thượng Thích Thông Lạc[1].  
		Trước khi trao tay, bà cụ có ý kiến: “Đạo hữu cũng nên có đôi lời nhận 
		định. Tôi quý cái tâm ngay thẳng của Hòa thượng Thích Thông Lạc, nhưng 
		lại e rằng, lời Thầy viết ra quá bộc trực nên không khỏi gây nhiều chao 
		động, nhất là đối với thế hệ Phật tử đàn em của chúng ta.” Cảm nhận sự 
		chân thành trong lời “gởi gắm” của bà cụ Nguyên Thanh, tôi hứa là sẽ 
		viết đôi điều…
		
		Đọc qua tập sách thầy Thông Lạc, rồi nhìn về công 
		trình dịch thuật đồ sộ của Huyền Trang, tự nhiên tôi có cảm tưởng như 
		mình đang lạc lối trên đường về xứ Phật vì khách hành hương thì đông mà 
		nhìn rõ nhau thật khó. Nhất là khi đọc bài
		
		Chánh tín - Mê tín - Chánh kiến - Tà kiến nói về ngày Vu Lan,[2] 
		tôi xót xa nhớ Mẹ, nhớ nhà. Đã 50 năm rồi, tôi không còn được đi 
		với Mẹ lên chùa Châu Lâm Huế cúng dường quý Thầy trong mùa An cư kiết Hạ; 
		được ăn bánh trái, môn khoai sau lễ cúng thí thực trong mỗi chiều Vu Lan…
		
		Không biết từ bao lâu rồi, tháng Bảy Vu Lan trở thành 
		biểu tượng cho mùa báo hiếu đối với người theo và có cảm tình với đạo 
		Phật. Phải chăng xuất phát từ sự tích Phật giáo: Ngài Mục Kiền Liên cứu 
		mẹ là Thanh Đề bằng sự vận dụng pháp lực và uy đức của chư tôn đức trong 
		mùa An cư kiết Hạ. Hay tại cảm xúc luân lưu tự nhiên “gió mùa Thu mẹ ru 
		con ngủ” mà thiên nhiên, đất trời và con người bỗng có chung một “nỗi 
		lòng” thương điều hiếu hạnh với nguồn cội sinh thành.
		
		Trong dòng tâm tưởng trôi chảy êm đềm của mùa Vu Lan 
		rằm tháng Bảy đó, Hòa thượng Thích Thông Lạc đã đưa ra  lời phản bác ý 
		nghĩa, nội dung và nguồn gốc của mùa Báo Hiếu trong truyền thống Phật 
		giáo Việt Nam.
		
		Luận điểm tổng quan của Thầy trong Đường Về Xứ 
		Phật là đứng trên quan điểm Phật giáo Thiền Tông (Tiểu Thừa) – đã 
		được Hiểu và suy diễn theo khuynh hướng đặc thù của riêng Thầy – để phản 
		bác về các hình thái Lý và Sự - Tri và Hành của “Phật giáo Phát Triển” (Đại 
		Thừa. Thầy Thông Lạc thường xuyên nhấn mạnh rằng: “Kinh điển phát 
		triển (Đại Thừa) diễn đạt giáo lý phi đạo đức một cách cụ thể rõ ràng, 
		thế mà mọi người vì quá vô minh, u tối không thấy, nên bị lừa đảo, bị 
		lường gạt một cách đau đớn.” (TTL. Đường Về Xứ Phật, tập VI. Tr.5)
		
		
		Không rõ đã có bao nhiêu người được thầy Thông Lạc 
		“khai thị” theo phương pháp nầy cho bớt “vô minh”. Riêng kẻ viết những 
		dòng nầy thì… không thấy vô minh mà cũng chẳng thấy hết vô minh trước và 
		sau khi đọc bài thầy Thông Lạc viết về Vu Lan Bồn. Thầy tự nhận là bậc 
		tự phát giác ra được một vụ “báo hiếu vô đạo đức khổng lồ” trong lịch sử 
		hơn nghìn năm của Phật giáo. Đó là trường hợp đức Mục Kiền Liên cứu mẹ, 
		ra khỏi địa ngục A Tỳ. Thầy cho rằng, đây là “một sự lừa đảo có sách 
		vở và đã trở thành một truyền thống báo hiếu vô đạo đức trong lòng tín 
		đồ Phật giáo Việt Nam hơn cả nghìn năm mà không ai phát giác ra được.”
		
		
		Chuyện Mục Kiền Liên cứu mẹ tuy là câu chuyện mang 
		bối cảnh Phật giáo, nhưng đã trở thành câu chuyện dân gian như chuyện 
		Tấm Cám, Thị Kính Thị Mầu, Ăn Khế trả Vàng, Cây Tre Trăm Đốt… trong dòng 
		văn hóa Việt Nam. 
		
		Tóm tắt chuyện Mục Liên Thanh Đề là như vầy: Mục 
		Kiền Liên xuất gia theo Phật, tu hành chứng quả giải thoát đắc Lục Thông 
		và trở thành một đại đệ tử của đức Phật. Bà mẹ Thanh Đề từng là một tín 
		nữ thuần thành Phật giáo. Khi Mục Kiền Liên xuất gia, bà Thanh Đề tìm 
		cách ngăn cản nhưng không được. Tức giận, bà đã làm những việc bất chánh 
		đối với chư tăng như bỏ các thứ hương liệu cấm dùng trong nhà Phật và 
		làm bánh nhân pha thịt chó để thử thách tăng đoàn. Khi chết, Thanh Đề 
		đọa địa ngục A Tỳ. Mục Kiền Liên dùng nhãn lực thần thông thấy mẹ mình 
		đang bị đọa địa ngục, bị quỷ dữ hành hạ và đói khổ kinh hoàng. Với lòng 
		hiếu hạnh thương mẹ, Mục Liên dùng thần thông xuống địa ngục thăm và 
		mang theo bát cơm cho mẹ. Nhưng cơm chưa đến miệng Thanh Đề đã cháy 
		thành than. Vô phương cứu mẹ, Mục Kiền Liên bạch Phật xin tìm phương 
		cách cứu mẹ mình. Đức Phật chỉ giáo rằng: “Nhân mùa an cư kiết Hạ sẽ kết 
		thúc vào rằm tháng Bảy, chư tăng ni sau ba tháng ẩn cư tu học nên thân 
		tâm an tịnh, năng lực phong quang. Muốn cứu mẹ ra khỏi địa ngục cần phải 
		có sự chú nguyện và công đức to lớn của chư tăng hợp lại để độ trì mới 
		giải cứu được. Mục Kiền Liên vâng lời Phật dạy, cung thỉnh chư tăng cúng 
		dường trai tăng và tứ sự. Nhờ vậy, Ngài đã cứu mẹ ra khỏi chốn địa ngục.”
		
		Từ đó, ngày rằm tháng Bảy trở thành ngày báo hiếu, xá 
		tội vong nhân.
		
		Qua sự tích sự tích Mục Liên Thanh Đề và truyền thống 
		báo hiếu này, thầy Thích Thông Lạc đã đưa ra những luận điểm phản bác. 
		Thầy viết rằng:
		
		1.     
		Mục Liên Thanh Đề là một câu chuyện phi đạo 
		đức trong Phật giáo Đại Thừa. Câu chuyện nầy là một thứ giáo pháp phi 
		đạo lý, phi nhân quả, không công bằng và công lý.
		
		2.     
		Đây là câu chuyện được dựng lên trong thời đại 
		phong kiến đầy dẫy tệ nạn vua quan chuyên ăn hối lộ, mua quan bán chức, 
		hành động không công bằng hợp lý. “Độ chúng sanh” thực chất chỉ là một 
		hành động ăn lo hối lộ. Nhờ có lo lót như vậy, bà Thanh Đề mới thoát 
		cảnh tù tội A Tỳ Địa Ngục.
		
		 3.     
		Chỉ có luật nhân quả mới giữ vai trò công bằng 
		và công lý mà thôi. Vì nhân quả là do hành động của mọi người tự làm tội 
		hay vô tội đều chính nơi họ, cho nên luật nhân quả chính là con người 
		tạo ra, để xử phạt hay ban thưởng chính lại họ, chứ không có một kẻ thứ 
		hai nào thưởng phạt. Vì thế nó rất công bằng và công lý, không ai lo lót 
		và hối lộ nó được. Kẻ nào làm ác thì phải thọ lấy quả khổ, kẻ nào làm 
		thiện thì hưởng được phước báo.
		
		Qua lăng kính Tiểu Thừa (theo cách sở đắc và suy diễn 
		riêng của Hoà thượng Thông Lạc), thầy đã cho giáo pháp Đại Thừa (cũng 
		đồng thời, theo cách hiểu riêng của Thầy) là một loại “dị giáo” phi đạo 
		đức và phi Phật pháp; chỉ có những kẻ u mê, vô minh, lạc hướng mới bị 
		các thầy tu theo phái Đại Thừa vẽ rồng vẽ rắn theo hình tướng tà đạo để 
		đánh lừa. Quan điểm nầy đã được thầy Thông Lạc lập đi lập lại một cách 
		quyết đoán và quyết liệt trong hết thảy 10 tập “Đường Về Xứ Phật”.
		
		
		Đường về xứ Phật là con đường tâm linh cao rộng. Tuy 
		thênh thang và tự do nhưng không dễ tìm thấy như đại lộ Đông Tây hay như 
		đường xuyên Nam Bắc vì đây là con đường đo bằng trí tuệ và thấy bằng tâm 
		linh. Viết những dòng nầy, người viết chỉ mong là những người tôn Phật 
		làm bổn sư, quy hướng Phật làm tâm linh sư biểu sẽ thấy nhau rõ hơn trên 
		đường về xứ Phật.
		
		 
		
		1.     
		Đạo đức Phật giáo về hiếu hạnh 
		
		
		Nói đến truyền thống đạo đức, trước hết phải nói về 
		ân nghĩa. Văn hóa dân tộc Việt Nam đặt nặng tinh thần “ân đền nghĩa trả” 
		để đối trị với phường vong ân bội nghĩa. Văn hoá Phật giáo và dân tộc 
		Việt Nam vừa song hành, vừa hòa quyện trong đời sống tinh thần và nề nếp 
		xã hội mà đạo Trung Hiếu là đứng đầu trong bảng thang giá trị làm người. 
		Bởi vậy, công hạnh của người tu theo đạo Phật là “Thượng báo tứ trọng 
		ân, hạ tế tam đồ khổ” (Trên đền đáp 4 ơn sâu, dưới cứu giúp 3 đường khổ) 
		trên con đường tìm cầu giác ngộ. Bốn ơn sâu ấy là: Ơn cha mẹ, ơn 
		chúng sinh muôn loài, ơn quốc gia xã hội, ơn Tam bảo. Kinh Tăng Chi, 
		kinh Địa Quán còn diễn đạt chánh đại hơn về công ơn sâu dày của cha mẹ 
		mà phận làm con không làm sao báo đáp vẹn toàn. Chuyện Mục Kiền Liên cứu 
		mẹ chỉ là một biểu tượng, một thí dụ điển hình của tinh thần báo hiếu 
		trong muôn một.
		
		Biểu tượng đưa ra quá rõ ràng và chân thực: 
		
		
		Một bà mẹ vì quá thương con đã trở thành vọng động 
		nên phải bị đọa địa ngục. Người con chứng đạo và đạt đệ nhất thần thông. 
		Biết mẹ mình đang bị quỷ sứ hành hạ dưới đáy tầng địa ngục. Người con xả 
		thân xuống địa ngục cứu mẹ nhưng khả năng và lòng hiếu hạnh một mình 
		chưa đủ vượt qua bức tường vọng nghiệp quá nặng nề của mẹ. Người con 
		theo lời Phật dạy và nương nhờ vào định lực ứng hợp của chư tăng ni 
		trong mùa An cư kiết Hạ để cứu mẹ ra khỏi chốn hỏa ngục.
		
		Sự tích câu chuyện mang một nội dung hợp tình hợp 
		lý đầy nhân bản.  Đây là một khái niệm đạo đức phổ quát không những đối 
		với con người mà với tất cả mọi loài hữu tình. Con gà, con ngựa, con voi, 
		con hổ … còn mang thiên tính tình mẫu tử xả thân bảo vệ cho nhau huống 
		chi là con người. Từ một người ở bộ lạc sơ khai đến một bậc đại danh xưa 
		nay có ai vô tình thản nhiên khi cha mẹ mình đang bị đau khổ, bị hành hạ 
		dẫu cho trong bất cứ tình huống và hoàn cảnh nào.
		
		Có chăng những tượng đá mới vô cảm tới mức lạnh 
		lùng, ngoảnh mặt trước tiếng kêu đau thương của cha mẹ mình đang bị đày 
		đọa; thản nhiên ráng tu thêm vài đại kiếp cho tới ngày giác ngộ, chấm 
		dứt sinh tử luân hồi để đem làm quà báo hiếu!. 
		
		 
		
		2. Hối lộ thần thánh 
		
		Con người càng văn minh, nhân tính càng biểu hiện 
		rạch ròi qua sự tương tác. Ngay như tại các nước Âu Mỹ ngày nay, những 
		hình thức vận động tập thể để xin giới nắm quyền lực tôn trọng nhân 
		quyền, đối đãi tử tế, xét xử công bằng dành cho các đối tượng đang bị 
		bắt bớ, giam cầm hay đang bị đối xử khắc nghiệt là những biểu hiện điển 
		hình của văn minh và văn hóa. Sự vận động cần đến sức mạnh tổng hợp của 
		các nhà chuyên môn, các quan chức công tư, quần chúng bình thường để ký 
		vào những thỉnh nguyện thư (petition), thư phản đối (letter of protest), 
		thư ủng hộ (letter of support)… hoặc tổ chức những cuộc họp mặt ăn uống 
		thuyết trình, những cuộc gây quỹ, tặng quà… trên một quy mô rộng lớn là 
		những việc làm hợp pháp đầy quang minh chính đại. Ngay thời đức Phật còn 
		tại thế, những cuộc trai tăng cúng dường tứ sự (thực phẩm, áo quần, 
		thuốc men, mền chiếu) của các bậc vua chúa và trưởng giả đương thời cho 
		Tăng đoàn cũng thường diễn ra trước sự quan chiêm của đại chúng. Tương 
		tự như thế, cuộc cúng dường vận động của Mục Kiền Liên để xin năng lực 
		lành của chư tăng gíúp cứu Mẹ đang bị hành hạ ở địa ngục A Tỳ là một 
		việc làm đầy hiếu hạnh , đáng nêu gương báo hiếu muôn đời. 
		
		Tuy nhiên, riêng thầy Thích Thông Lạc thì đã phản bác 
		và suy diễn sự tích báo hiếu Mục Kiền Liên như là một trò “hối lộ” phi 
		đạo đức vì phải nương nhờ tha lực của chư tăng trong mùa An cư 
		kiết Hạ. Đồng thời, thầy nêu lên lý tưởng người tu sĩ đạo Phật muốn báo 
		hiếu cha mẹ thì phải tu hành chân chánh cho đến khi làm chủ được luân 
		hồi sinh tử; nghĩa là phải chuyên tu hành cho đến chỗ đắc đạo mới gọi là 
		báo hiếu cho cha mẹ.
		
		Đạo Phật không đặt tiêu chí đúng/sai thông qua 
		những lý luận giả định và những hình tướng mang bản chất giả tướng phàm 
		phu trong nội hàm tục đế. Đức Mục Kiền Liên hội thỉnh năng lực chư tăng 
		để cứu mẹ hay thầy Thích Thông Lạc chuyên tu đắc đạo để báo hiếu cha mẹ 
		thảy đều là phương tiện. Tùy theo căn cơ và nghiệp lực của từng chủ thể 
		và đối thể để chọn phương tiện thích hợp mà kết chiếc bè qua sông. Tới 
		được bờ mới là cứu cánh. Bị tha hóa trong phương tiện của tri thức 
		thường nghiệm là biểu hiện của vô minh. Quay lưng với phương tiện môn, 
		khư khư ôm cứng cách làm và cách biết của riêng mình để phỉ báng những 
		phương tiện khác mình là ngu là dốt –  thì vô hình chung, tự lời phỉ 
		báng – đã xa rời hệ thống giá trị luân lý và đạo đức đậm tính từ bi, hỷ 
		xã của con đường giải thoát.
		
		 
		
		3. Luật nhân quả
		
		Nhân quả là một quy luật khách quan của tự nhiên và 
		xã hội; không phải là một sản phẩm của giáo lý nhà Phật. Nguyên lý nhân 
		quả là điều kiện tiên khởi và tất yếu để vạn vật sinh ra và phát triển 
		như âm với dương, sáng với tối, nóng với lạnh. Nó hiện hữu, chi phối và 
		vận hành thiên nhiên mới tạo được thế giới vật lý qua hình tượng “Big 
		Bang”. Nhân quả là nguyên lý thường hằng từ khi chưa có bóng dáng của 
		con người và mọi sinh thể trên trái đất. Nhưng khi đến với Phật giáo, 
		luật Nhân Quả không còn là một lý thuyết khách quan, lạnh lùng và máy 
		móc. Khái niệm nhân quả trong đạo Phật là một nguyên lý ứng dụng đầy 
		sinh động của dòng sống hiện tiền. Lý nhân quả của nhà Phật là một tiến 
		trình tương tác kỳ vỹ của NHÂN-DUYÊN-NGHIỆP-QUẢ. Nếu cứ theo lý nhân 
		quả máy móc thường nghiệm thì thái tử Tất Đạt Đa xuất phát từ cái “nhân” 
		con vua thì sẽ đạt tới cái “quả” làm vua. Nhưng vị thái tử nầy đã huân 
		tập THIỆN NGHIỆP của bao nhiêu tiểu kiếp, trung kiếp và đại kiếp tu hành. 
		Đồng thời, Ngài có được THUẬN DUYÊN sinh ra trong triều đại thanh bình 
		của minh quân mà cũng là từ phụ Tịnh Phạn. Nghiệp lành và duyên thuận đã 
		chuyển hóa một vị vua tương lai thành đức Phật Thích Ca.
		
		Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) là suối nguồn phát 
		khởi dòng chảy luận lý học Phật giáo. Nó không nương tựa vào một sức 
		mạnh thần quyền hay thế quyền nào cả mà trực tiếp đi vào sự đau khổ trầm 
		thống của con người và mọi sinh thể. Từ đó, phân định rạch ròi đâu là 
		nhân, đâu là quả theo cả hai chiều: Lưu chuyển và hoàn diệt. 
		Nhân quả lưu chuyển giữa đời thường: Tập là Nhân; Khổ là Quả. Nhân quả 
		hoàn diệt siêu trần thế: Đạo là Nhân; Diệt là Quả. Giữa cuộc đời 
		thường, một sự thật hiển nhiên mà ai cũng từng nếm trải là cảm thọ khổ 
		đau qua từng chớp mắt của thời gian. Khổ đau vì vô minh, khổ đau vì tập 
		khí, khổ đau vì bị dập vùi bởi lơi ra khỏi dòng trung đạo. Và bản chất 
		của Khổ là do sự dính mắc và tác động qua lại của những mắc xích sinh 
		khởi mà đức Phật chỉ rõ trong Tập Đế xoay vòng qua Thập Nhị Nhân Duyên.
		
		
		Nhân quả trong đạo Phật là một vòng tròn sinh diệt mà 
		nhân là tâm điểm và quả là vòng tròn. Không có tâm điểm sẽ không có vòng 
		tròn và không có vòng tròn thì tâm điểm không có lý do tồn tại, nên 
		trong nhân đã có quả và trong quả đã có nhân. Từ một tâm điểm nhân phát 
		khởi nhưng vòng tròn sinh hóa vẽ ra lớn hay nhỏ, đầy đặn hay méo mó là 
		do sức mạnh và điều kiện hay nghiệp lực và hợp duyên tác động. Nhân quả 
		đồng thời. Khi bà Thanh Đề làm bánh nhân thịt chó để thết đã chư tăng là 
		đã có sẵn mầm ác đọa địa ngục. Và khi Mục Kiền Liên xả thân cứu mẹ là đã 
		có sẵn mầm thiện hảo của hiếu nghĩa ở trong.
		
		Luật nhân quả mà Thầy Thông Lạc nhắc đi nhắc lại 
		thường xuyên trong 10 tập Đường Về Xứ Phật là một nguyên lý lạnh lùng và 
		khô héo thuần lý tính và máy móc. Hễ đánh là động; hễ hô là ứng. Thực tế 
		không đơn giản và kết cấu sơ sài như thế. Vì vậy, điều Thầy dạy… phải 
		“sống theo luật nhân quả” đã trở thành một hình thức ngôn ngữ sơ cơ và 
		khả hữu như “nắm lá trong lòng bàn tay” của chúng sinh mà đức Phật từng 
		dùng làm biểu tượng để khai thị cho những tầm nhìn giới hạn trước vô 
		cùng. Định kiến và chấp trước là nguyên nhân sự vắng bóng một hướng nhìn 
		thông thoáng và một tinh thần xả ly của lý Phật Đà trên đường về xứ Phật.
		
		 
		
		Tự lực hay tha lực?
		
		Khổng Tử nói trong sách Luận Ngữ rằng: “Quân tử hoà 
		nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa” (Người quân tử hòa mà không 
		đồng; kẻ tiểu nhân đồng mà không hòa). Cả hai thái độ quân tử và tiểu 
		nhân trong Khổng giáo đều không thể ứng dụng trong Phật giáo vì đạo Phật 
		quán chiếu tất cả chúng sinh cùng một thể. Hòa hay không hòa; đồng hay 
		bất đồng chỉ là biểu hiện tạm thời theo giả tướng thường nghiệm. Khi đã 
		gặp nhau trên “đường về xứ Phật” thì thị phi, bỉ thử chẳng còn. 
		
		
		Trong vô lượng pháp môn tu, sự phát triển của giáo lý 
		Đại Thừa là một bước lớn theo chân đức Phật.  Sau ngày đắc đạo, đức Phật 
		cũng đã chọn lựa con đường hóa độ quần sinh. Trong suốt 49 năm hóa đạo, 
		Ngài đã giúp cây đuốc diệu kỳ để kẻ học theo Ngài tự thắp lên mà đi tìm 
		cầu giác ngộ. Phật giáo Việt Nam, sau thời Lý Trần với Thiền tông cực 
		thịnh, đã tiến dần tới khuynh hướng “Thiền Tịnh song tu” (Tiểu Thừa 
		Thiền tông và Đại Thừa Tịnh độ tông khế hợp song hành trên đường tu 
		chứng). Có thể nói đấy là con đường Trung Đạo thích hợp nhất đối với 
		tinh thần văn hóa nông nghiệp và văn minh làng xã đậm bản chất Việt Nam. 
		Phương tiện tùy nghi cũng như thuốc hay đúng bệnh. Đối tượng nào thì có 
		phương tiện nấy. Kinh Di Đà, Pháp Hoa... giúp vẽ ra một thế giới diệu kỳ 
		xứng hợp với khát vọng của giới bình dân thì Duy Thức, Bát Nhã thì lại 
		đáp ứng được nhu cầu tri kiến của tầng lớp “thượng căn, thượng trí”.
		
		Thầy Thông Lạc viết:
		
		“Vu Lan Bồn kinh, phẩm Phổ Môn trong bộ Diệu Pháp 
		Liên Hoa kinh, Di Đà kinh, Bát Dương kinh, Thủ Lăng Nghiêm kinh, Duy Ma 
		Cật kinh v.v… Đó là những loại kinh sách phi đạo đức, phi chân thật, phi 
		Phật pháp, nó không triển khai tri kiến giải thoát và tri kiến đạo đức 
		nhân quả, nó khiến cho trí tuệ con người u mê, vô minh, đen tối, liệt 
		tuệ thường sống với sự hiểu biết mơ hồ, trừu tượng, mê tín của thế giới 
		siêu hình tưởng tượng, nó dạy người làm những việc thiếu đạo đức và 
		thiếu chân thật, thường cúng tế, cầu cạnh, van xin, gia hộ, hộ trì v.v…
		
		
		Theo đạo lý nhân quả, ai làm ác thì phải chịu nhận 
		lấy quả khổ, không ai cứu khổ cho kẻ khác làm ác được, chỉ có các nhà 
		thuộc kinh sách phát triển mới có một đức Bồ Tát Quán Thế Âm dám làm 
		điều phi đạo đức này…”
		
		Có chăng một hình thức “tự lực” hay “tha lực” tồn tại 
		độc lập để người tu hành có quyền lựa chọn dễ dãi và cụ thể như đi xe 
		lửa hay đáp tàu bay để về “ga” giác ngộ?
		
		Trên thực tế cũng như trong điều kiện lý tưởng nhất 
		cũng không bao giờ có sự tác động của tự lực hay tha lực độc lập tuyệt 
		đối và tách rời nhau cả mà tạo ra được một động lực hay một sự chuyển 
		đổi nào của tâm thức cũng như của hoàn cảnh cả.  Muốn tu – bất cứ tu 
		theo môn phái nào – thì cũng phải dùng sự mong cầu của chính mình (tự 
		lực), nương vào lời dạy của Phật (tha lực) để tịnh tâm quán 
		chiếu (tự lực) trong khi vẫn còn nương vào phương tiện vật chất 
		cúng dường của đàn na tín thí mới sống được mà tu (tha lực)… Ngay 
		cả khi cầu nguyện một mình trong vắng lặng chẳng hạn thì cũng phải có sự 
		kết hợp đồng bộ giữa tự lực và tha lực. Ví như khi đem ý muốn mong cầu 
		của mình (tự lực) nói lên với đức Quán Thế Âm hay với chư Phật, 
		chư Bồ tát (tha lực) thì rõ ràng là một sự kết hợp tạo thành sự 
		ứng dụng của lời cầu nguyện (phương tiện) nhằm hướng đến một mục đích (cứu 
		cánh). Và cứ thế, tự lực và tha lực tương tác không rời nhau, hợp duyên 
		thành phương tiện thiện xảo mới mong đến được cứu cánh (thành Phật, 
		thành bồ tát, thanh văn, duyên giác; chứng ngộ hay giải thoát…). Ngay cả 
		những thiền sư hốt nhiên đại ngộ thì vẫn là một ánh chớp hay sự vỡ bùng 
		tại đỉnh điểm sau cùng của một quá trình tu hành đầy thanh tịnh và tinh 
		tấn với sự trì kéo của tự lực dũng mãnh kiên cố và tha lực có khi là 
		thuận duyên, khi chướng duyên tác động dưới vô vàn hình tướng.
		
		Đức Phật từ khi xuất gia đến khi thành đạo cũng đã 
		trải qua bao nhiêu khoảnh khắc và chặng đường mà Ngài phải thường xuyên 
		đối diện với tự lực của chính mình và tha lực của hoàn cảnh. Sau 
		khi thành Phật, Ngài vẫn không quên quay về hóa độ cho những đối tượng 
		đã “trợ lực” cho Ngài. Kể cả con ngựa Kiền Trắc và Xa Nặc đã đưa Ngài 
		qua sông A Nô Ma, năm anh em Kiều Trần Như đã gặp gỡ trên đường tìm đạo, 
		nàng Ma Ha Bà Xa Bà Đề đã dâng bát sữa giúp Ngài lai tỉnh sau cơn khổ 
		hạnh kéo dài... Bởi vậy, e rằng, một thái độ khăng khăng độc tôn “tự lực” 
		trên đường tu học thật khó tránh khỏi biên kiến của cực đoan và vọng 
		động.
		
		Có thể nói rằng, tự lực và tha lực đều là hai cây 
		kiếm báu nội phò ngoại bật, giúp phát quang mở đường cho công hạnh tu 
		trì, chặt đứt vô minh. Nhưng bảo kiếm ấy sẽ không hơn gì cây dao cùn của 
		người hàng thịt nếu kiếm báu vào tay người ngã mạn, động tâm và chấp thủ.
		
		Việc cầu nguyện và thờ phụng trong tôn giáo xưa 
		nay là một phương tiện tinh thần. Đấy là một khuynh hướng tâm linh mà 
		người thực hành có toàn quyền lựa chọn: Linh tại ngã, bất linh tại ngã. 
		Người xưa thường nói: “Âm dương đồng nhất lý”. Lý ở đây là lý bình đẳng 
		giữa nhân và quả, cầu và ứng, tâm và linh. Giới chuyên môn thuộc nhiều 
		lĩnh vực tự nhiên và xã hội thường rất dè dặt và cẩn trọng khi đề cập 
		đến những sinh hoạt mang tính chất tâm linh rất tế nhị nầy. Mọi thái độ 
		khoác tay phê phán chủ quan và bài bác tiêu cực đều chỉ đưa đến phản tác 
		dụng. 
		
		 Trong hội nghị chuyên đề về Đức Tin Tôn Giáo và Khoa 
		Học, hội Tâm Lý Ứng Dụng Quốc Tế (IAAP = International Association of 
		Applied Psychology) họp tại đại học LPU ở Olympia, WA, Mỹ vào tháng 
		3 năm 2012, đã đặt ra vấn đề là: “Sự cầu nguyện trong các tôn giáo 
		là một hình thức mê tín dị đoan hay có căn cứ trên nguyên lý khoa học và 
		năng lượng có thật”. Qua các bài thuyết trình của các nhà khoa 
		học và tâm lý học thời danh, vấn đề trung tâm được thảo luận là:
		
		- Có sự hiện hữu của năng lượng, sóng và tần số điện 
		từ ẩn tàng dưới nhiều dạng thức chằng chịt khắp các thiên hà vũ trụ. 
		Những dụng cụ khoa học truy tầm của trái đất đã ghi nhận tính tràn đầy 
		và năng động của những suối nguồn năng lượng đó. Ngay ở địa cầu cũng 
		tràn ngập các dòng năng lượng tự nhiên và nhân tạo. Tất cả đều có sự 
		giao thoa vô hình vô tướng nhưng cực kỳ linh động và mạnh mẽ. Biểu hiện 
		gần gũi và cụ thể nhất mà con người có thể tiếp cận được là qua các 
		phương tiện truyền thông và vi tính. Chỉ cần nhích đúng tần số, mở đúng 
		mã số là tức khắc con người được nối kết với nhau từ hai đầu trái đất. 
		Có lẽ tần số và mã số của người Phật tử là Tâm.
		
		 Hơn mười năm trước, tôi có viết sự cảm nhận nầy qua 
		bài báo Sóng Tín Tâm (Waves of Faith). Bài đăng trên tạp chí 
		American Social Work Association (số 219, IV; 1995). Sau đó, tôi trích 
		đoạn đang vào truyện dài
		
		Tu Bụi 
		
		[3]:
		
		Có một sức mạnh vô hình của trời đất, vũ trụ. Ta 
		có thể gọi đó là “Năng Lực Vũ Trụ” hay gọi gì tùy thích. Năng lực đó ẩn 
		chứa trong Suối Nguồn Vũ Trụ.  Con người sinh ra là đã có khuynh hướng 
		nối kết với Suối Nguồn Vũ Trụ đó rồi.  Cầu nguyện là gởi năng lực nhỏ bé 
		và yếu ớt của cá nhân mình vào năng lực suối nguồn vũ trụ to lớn vô biên 
		đó.  Khi nguy biến, dốc tâm nguyện cầu là mở rộng cửa để lấy lại năng 
		lực đó.  Sự thành tâm cầu nguyện cũng ví như hình thức “giải mã” để năng 
		lực vũ trụ bắt gặp cửa ngõ của cá nhân mà hút vào và biến tướng dưới vô 
		số hình thức.  Quán Thế Âm là Nghe Tiếng Trần Gian.  Đó là trạm chuyển 
		tiếp năng lực vũ trụ vào nhu cầu của hoàn cảnh con người trần gian một 
		cách kịp thời và chính xác nhất.  Đức Quán Thế Âm là một vị đại Bồ Tát, 
		nhưng đồng thời cũng là một Năng Lực Siêu Nhiên Tuyệt Đối nên không bao 
		giờ suy suyển, vắng mặt hay thiếu hụt bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu có 
		nhu cầu trong vũ trụ, càn khôn nầy.  Có thể cùng lúc biến thành vô số 
		nhân vật khác nhau tùy theo nhu cầu của hoàn cảnh: Thiên Thủ Thiên Nhãn 
		Vô Ngại Đại Bi. Đạo Phật có đức Quán Thế Âm.  Đạo Chúa có đức Mẹ.  Dân 
		gian Việt Nam có ông Trời, ông Bụt và mọi dân tộc, mọi tôn giáo xưa nay 
		và bất cứ nơi đâu, đều có một đấng cứu khổ tương tự như ngài Quán Thế Âm.  
		Người tiến hóa có một hình ảnh thánh linh để cầu. Người cổ sơ cầu đá, 
		cầu cây, cầu mưa, cầu gió… đều là một hình thức giống nhau để tiếp cận 
		với năng lực thường hằng trong Suối Nguồn Vũ Trụ đó.
		
		Tôn giáo là một hệ thống lý thuyết chuyên sâu về tinh 
		thần được người ta tin theo, tôn thờ và thực hành vào đời sống. Đó là 
		một con đường tâm linh nên gọi là Đạo. Nhà tu là người sống Đạo và tín 
		đồ là người theo Đạo. Sinh hoạt tôn giáo thường xuất hiện dưới ba hình 
		thức: Tin theo, tôn thờ và sống với. Trong đó, tin theo là điều kiện đầu 
		tiên để trở thành người có tôn giáo. Bảy tỷ người trên thế giới hiện nay 
		có 59% nhận mình là có theo tôn giáo (religious), 23% không theo tôn 
		giáo nào cả (non-religious) và 13% là vô thần (atheist). Trung bình tám 
		trên mười người theo tôn giáo xác nhận là họ cầu nguyện hàng ngày, hướng 
		về một hay những đấng thần linh nào đó của tôn giáo mà họ tin theo (PEW. 
		Religion/Stat/2011). 
		
		Cuộc tranh luận giữa tôn giáo và khoa học đã kéo dài 
		trên mấy nghìn năm vẫn chưa đến hồi ngã ngũ. Tuy nhiên, Phật tử 
		không ai “u mê và bị lừa dối” để đọc kinh A Di Đà, kinh Thủ Lăng Nghiêm, 
		kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm Phổ Môn và cầu nguyện đức Quán Thế Âm Bồ 
		Tát một cách mù quáng như thầy Thông Lạc suy diễn cả. Cái “ý 
		thức cầu nguyện” từ thời cổ sơ phát xuất từ đức tin bằng cảm nhận và 
		trực giác rằng, con người và trời đất có sự tương tác vô hình. Thần linh 
		là một dạng linh hồn ở bên ngoài thể xác. Con người và thần thánh có khả 
		năng tiếp cận nhau ở một cấp độ cao hơn thân xác vật lý. Và khả năng 
		cống hiến để tạo “duyên” tiếp cận với thần thánh là thông qua cầu nguyện 
		và lễ nghi chiêm bái. Ngành vật lý hiện đại gọi tên những sức mạnh vô 
		hình vô ảnh nhưng có thể tiếp cận nhau giữa các đối thể tự nhiên và sinh 
		thể ấy là những dạng năng lượng, là tần số, là sóng… Bản chất của tôn 
		giáo là tâm linh. Tôn giáo không có cầu nguyện thì chỉ còn là một hệ 
		thống triết lý hay lý thuyết trong tư duy hay sách vở mà thôi.
		
		Một số các nhà Phật học cận đại thì lại có khuynh 
		hướng lý giải sự cầu nguyện theo hướng “tâm lý ứng dụng” rằng: Cầu 
		nguyện Phật, Bồ tát là đem tâm thành để khơi dậy tự tánh Phật và Bồ tát 
		của chính mình. Khi đảnh lễ cầu nguyện là tâm mở ra để quay về tự tánh 
		như “tự tánh Quán Thế Âm, tự tánh Di Đà...” để tìm cứu khổ và vãng sanh 
		ngay trong trái tim và tri thức của chính mình.
		
		Nếu thư giãn một chút – chớ vội biến phàm qua thánh – 
		thì có lẽ nên thành thật nói với nhau rằng: Khi cúi đầu đảnh lễ trước 
		Phật đài hay dốc tâm cầu nguyện trong cơn nguy biến, mấy ai trong chúng 
		ta có được “thượng căn, thượng trí” để tìm cầu Phật hay Bồ tát ngay 
		trong bản tâm sâu thẳm của mình. Khi thành tâm cầu nguyện, hầu hết ai 
		cũng muốn tìm đến một đối tượng thiêng liêng, một năng lực siêu phàm ghi 
		nhận và tiếp độ cho lời cầu khấn của mình. Vậy nên, tôn giáo là tôn giáo, 
		khoa học là khoa học, triết lý là triết lý; chớ nên nhập nhằng và vất vả 
		đi tìm một sự “hội tụ” khiên cưỡng không cùng mẫu số mà làm gì.
		
		Nếu tu hành mà không gieo duyên, giải nghiệp được và 
		kiếp sống đời nầy chỉ có thọ nghiệp “tự động và vô điều kiện” theo cái 
		lý nhân quả máy móc như “khẩu súng bóp cò là nổ” thì đạo Phật chẳng có 
		lý do xuất hiện giữa chốn Ta Bà nầy. Nếu nhân nào quả nấy không có đường 
		hóa giải thì làm sao một bạo chúa của nửa đời trước như A Dục Vương lại 
		trở thành Hộ Pháp Đại Vương trong nửa đời sau và bao nhiêu nhân vật lịch 
		sử cải tà quy chánh “đồ tể buông dao thành Phật” trong lịch sử hóa độ 
		chúng sinh của đạo Phật. 
		
		 
		
		Đường về xứ Phật là tâm đạo
		
		Theo viện thống kê hàng đầu của Mỹ, PEW 2012, thì 
		toàn thế giới có 4200 tôn giáo. Trong đó chỉ có 2 tôn giáo, Phật giáo và 
		Lão giáo (Taoism), được xem là “tôn giáo ngoài quy ước” (irreligious) 
		vì không tin có một đấng Sáng Thế Uyên Nguyên, Thượng Đế hay Ông Trời. 
		Thú vị hơn nữa là đạo Phật đang được (hay bị) xem là (1) “hội tụ” với 
		khoa học hiện đại, (2) là một hệ thống triết lý vô thần, (3) là một hệ 
		thống tôn giáo đa thần với hằng hà sa số chư Phật và Bồ Tát, (4) là một 
		cổ xe con tự lực tự độ, (5) là một cỗ xe nhớn nương vào tha lực độ tha, 
		(6) là một siêu tôn giáo khi tách bến phàm trần nhập vào thể tánh… 
		và ui chao, nhiều nhiều không kể xiết! 
		
		Vì Phật giáo phong phú và đa dạng đến như thế, nên 
		dẫu ồn ào hay thầm lặng, nhưng lúc nào cũng có hiện tượng bồ tát Thường 
		Bất Khinh và bồ tát Nghịch Hạnh xuất hiện dưới muôn hình muôn vẻ giữa 
		cuộc đời thường. Đó là những bóng mây bay thoáng qua trên đường về xứ 
		Phật.
		
		Từ ngàn xưa, hiểu rõ thực trạng nầy nên đức Phật đã 
		dạy “Tự mình thắp đuốc” để thấy rõ được mình trong mối tương quan đồng 
		hành trên đường đạo.
		
		Tiếng nói rổn rãng bên ngoài không quan trọng bằng 
		tiếng nói lao xao bên trong. 
		
		Chớ để cho tiếng nói nào to hơn pháp âm rỗng lặng. 
		Trên đường về xứ Phật, nếu chưa thấy rõ nhau thì ráng nhìn rõ nhau hơn 
		qua chân dung đức Phật vẫn lặng lẽ trầm tư trong cơn đại định suốt mấy 
		nghìn năm.
		
		
		                                                                  
		
		
		Sacramento, tiết vào Thu 2012
		
		Trần Kiêm Đoàn
		
		 
		
			
			
				
				
				
				
				[1]  http://yume.vn/binhan26901/article/duong-ve-xu-phat-tron-bo-10-tap.35D12B0C.html
 
			
				
				
				
				[2]  http://metintrongphatgiao.blogspot.com/2010/10/muc-lien-thanh-e.html
 
			
				
				
				
				[3]  http://www.trankiemdoan.net/van/truyendai/truyendai.html
 
		 
		
		 
		
		
		
		ký sự / hồi ức