NHÂN QUẢ
		
 
		
Nhân 
		quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ 
		trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân 
		quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một 
		xã hội nhân bản đạo đức. Nhân quả vì thế không chỉ có riêng của Phật 
		giáo, mà trước đó và ngay trong thời kỳ đức Phật còn tại thế, các luận 
		sư ngoại đạo cũng đã lập thành luận thuyết chủ trương rõ ràng rồi, nhưng 
		cũng vì kiến giải quá nhiều về nhân quả, nên mọi kiến giải trở thành đa 
		thù sai biệt và chống đối nhau trên quan điểm nảy sinh ra bốn loại mà 
		đức Phật gọi là tà chấp. Đức Phật, chỉ kết hợp lại những gì khế cơ khế 
		lý mà thành lập nhân quả Phật giáo. Nhân quả Phật giáo vì thế đã trở 
		thành hai hệ thống qua Phật giáo phát triển của các hệ phái sau này, đó 
		là nhân quả Tiểu thừa và nhân quả Đại thừa trong việc kết hợp với định 
		thức duyên khởi tùy thuộc vào thời gian và không gian mà hình thành cơ 
		sở lý luận cho tất cả mọi quan hệ duyên khởi trong thế giới. 
		
- Nhân quả 
		tiếng Sanskrit goi là hetu-phala, chỉ cho nguyên nhân cùng kết quả. Cũng 
		chỉ cho luật nhân quả, là thể của giáo nghĩa Phật giáo, dùng để thuyết 
		minh làm cơ sở lý luận cho tất mọi quan hệ của thế giới. Bởi vì sự hình 
		thành của tất cả các pháp, thì Nhân là “Năng sinh” quả là “Sở sinh”, có 
		nghĩa là pháp nào có khả năng dẫn sinh đến kết quả, thì pháp ấy là Nhân, 
		và do được nhân sinh ra thì đó chính là Quả. Nhân quả như thế chỉ có 
		được qua lệ thuộc thời gian tính có thể quan niệm theo Phật giáo Tiểu 
		thừa, nhưng không phải vì thế mà nhân quả được nhìn một cách nhất quán. 
		Ngay đến trong Phật giáo cũng tùy thuộc vào căn cơ chúng sinh mà đức 
		Phật thuyết về nhân quả của thời và không cho thích hợp với căn cơ của 
		họ, nên nhân quả cũng vì thế mà có sự sai khác về quan niệm và giải 
		thích giữa các nhà Tiểu thừa và Đại thừa về mặt chủ trương. Và vào lúc 
		bấy giờ nhân quả cũng được nhìn từ nhiều nhãn quan qua các chủ trương 
		của các nhà luận sư trước đó và vào lúc bấy giờ tại Ấn Độ khi đức Phật 
		ra đời. Những chủ trương nhân quả của ngoại đạo vào lúc bấy giờ và trước 
		đó tại Ấn Độ có thể phân ra làm bốn loại, và đức Phật liệt họ vào bốn 
		loại tà chấp như dưới đây : 
		
1. Số luận 
		(Skt: Sāṃkhya) chủ trương: Tất cả pháp là “một”, chủ trương tất cả 
		chỉ là một, nhận hai tướng “ngã” cùng “giác” bất khả phân ly, nhân quả 
		đồng nhau, cũng là chủ trương của luận sư Tăng Khư ngoại đạo. 
		
		
2. Thắng luận
		(Skt: Vaiśeṣika, Pāli: Vasesika) chủ trương: Tất cả pháp là 
		“khác”. Chủ trương này cho rằng tất cả pháp là khác nhau, giữa “ngã” 
		cùng “trí”, “ năng” cùng “sở” chúng khác nhau, cũng là chủ trương của 
		luận sư Tuỳ Thế ngoại đạo. 
		
3. Ni-kiền Tử
		(Skt: Nirgrantha-jñātapatra, Pāli: Nirgaṇṭha-nātaputta) chủ 
		trương: Tất cả pháp vừa “một” vừa “khác”. Chủ trương này cho rằng tất cả 
		các pháp vừa tồn tại trong một mà cũng vừa tồn tại trong khác, chúng 
		cùng nghĩa với nhau. 
		
4. Nhã-đề Tử 
		cùng Tà Mạng ngoại đạo chủ trương: Tất cả pháp chẳng phải “một” chẳng 
		phải “khác”. Chủ trương này cho rằng tất cả các pháp không liên hệ với 
		nhau (bất câu), không cùng tồn tại, mà chỉ có tính tương đối.
		
		
- Và chủ 
		trương của các phái ngoại đạo ở Ấn Độ cổ đại về các vấn đề như một khác, 
		thường vô thường, nhân quả có không… Theo Tứ tông luận Tiểu thừa, ngoại 
		đạo, dẫn xuất của Bồ-tát Đề-bà Ấn Độ, và Bồ-đề Lưu Chi dịch sang Hán 
		thời hậu Ngụy thì, Ngài dùng Tông kính luận Đại thừa để phá tứ chấp của 
		ngoại đạo cùng Tiểu thừa. 
		
- Theo các 
		nhà ngọai đạo cổ đại Ấn độ, có thể phân chia làm bốn lọai luận điểm về 
		quan hệ nhân quả, mà Phật giáo liệt họ vào bốn loại chấp: 
		
- Tà nhân tà 
		quả: Họ chủ trương đem nguyên nhân sinh khởi ra vạn vật vũ trụ qui về 
		năng lực do trời Đại tự tại. 
		
- Không nhân, 
		có quả: chủ trương này, họ thừa nhận sự tồn tại của thế giới hiện tượng 
		là quả, chỉ vì cái nhân của cái quả này khó mà tham cứu, nên họ phủ nhận 
		nguyên nhân khởi lên quả này. 
		
- Có nhân, 
		không quả: Chủ trương này, họ thừa nhận sự tồn tại của thế giới hiện 
		tượng cho là nhân, chỉ vì kết quả của nhân này khó mà tham cứu, cho nên 
		họ phủ định kết quả của nhân này. 
		
- Không nhân, 
		không quả: Chủ trương này, họ phủ định cả nhân lẫn quả. 
		
- Ngoài bốn 
		loại nhân quả trên ra, Phật giáo còn nhận thấy có hai thứ luận thuyết về 
		nhân quả nữa: 
		
- Trong nhân 
		có quả: Chủ trương này, thừa nhận mọi hiện tượng trong thế giới đang 
		hiện hữu qua quả chúng đã có sẵn đầy đủ trong nhân, đây là chủ trương 
		của các nhà tư tưởng Bà-la-môn giáo cùng học phái Số luận; tức là họ 
		chấp nhận trong nhân luôn luôn đầy đủ tánh quả, cho nên tính chất của 
		nhân cùng quả tương đồng. 
		
- Trong nhân 
		không có quả: Chủ trương này cùng với học phái Thắng luận, họ không chấp 
		nhận chủ trương trong nhân có quả và đối lập lại chủ trương trên. Họ đề 
		xướng cần phải kết hợp nhiều yếu tố căn bản độc lập mới có thể sinh khởi 
		ra thế giới hiện tượng, vì vậy trong nhân ắt đã không có quả, mà cần 
		phải vay mượn nhiều tướng nhân để hỗ tương hòa hợp mới có thể sinh ra 
		quả được; do vậy, tính chất nhân cùng quả không tương đồng. Luận thuyết 
		này cũng có thể gọi là trong quả đã có nhân. 
		
- Còn nhân 
		quả của Phật giáo đại để phân ra làm hai hệ thống Tiểu thừa và Đại thừa. 
		Tiểu thừa lấy Câu xá luận 6 (Đ. 29. No: 1558, tr. 30a-36a) làm 
		điển hình đề xuất ra thuyết tứ duyên, lục nhân, ngũ quả; còn Đại thừa 
		thì lấy Duy thức tông của Thành Duy Thức luận 8 (Đ. 31, No: 1586, tr. 
		41b) làm đại biểu, dùng tứ duyên, thập nhân, ngũ quả làm nội dung 
		chủ yếu để luận về nhân quả. 
		
- Về Tứ 
		duyên, tức chỉ cho Nhân duyên (Skt. hetu-pratyaya), Đẳng vô gián 
		duyên (Skt. samanantara-pratyaya), Sở duyên duyên (Skt. 
		ālambana-pratyaya), Tăng thượng duyên (Skt. adhipati-pratyaya) 
		thì Đại thừa và Tiểu thừa đều nói về chúng tuy có khác nhau; nhưng về 
		lục nhân tức là Năng tác nhân, câu hữu nhân, đồng lọai nhân, tương ưng 
		nhân, biến hành nhân, dị thục nhân, mà chủ yếu là Phát Trí luận 1, 15, 
		Đại Tỳ Bà Sa luận 10, 11, 16 cùng Câu Xá luận 6 của các bộ luận Tiểu 
		thừa chủ trương. Theo các nhà Tiểu thừa thì Năng tác nhân gồm thâu cả 
		Đẳng vô gián duyên, Sở duyên duyên, Tăng thượng duyên trong tứ duyên, 
		còn Nhân duyên thì đem khai diễn xếp vào hạng đầu của ngũ nhân. Nếu đem 
		ba học thuyết Tứ duyên, lục nhân, ngũ quả mà nói thì, đó chính là tư 
		tưởng luận hòan chỉnh về nhân quả của Phật giáo. 
		
A – NHÂN 
		QUẢ THEO TIỂU THỪA 
		
I - Theo 
		chủ trương Tứ duyên thì gồm: 
		
1/ Nhân 
		duyên: tức là nguyên nhân nội tại trực tiếp sản sinh từ quả có được, như 
		từ hạt giống sinh ra mầm, và như vậy hạt giống chính là nhân duyên của 
		mầm. Từ “Nhân duyên” này, thì nhân cũng được hiểu như là duyên. Ở trong 
		Nhân duyên luận của Phật giáo, thông thường điều kiện chủ yếu dẫn sanh 
		đến kết quả chính là nhân, còn điều kiện thứ yếu chính là duyên. Duyên 
		này là điều kiện để cho các pháp sinh và tồn tại. Nhận thức nguyên nhân 
		là một trong bốn điều kiện. Có hai từ chỉ cho nhân: karaṇa: nhân là cái 
		tác thành, tạo tác nên quả. Hetu: là hạt giống cho sản sinh ra quả. Ở 
		đây, từ nhân là một cưỡng từ, nó cũng chỉ là một trong nhiều điều kiện, 
		cho nên gọi là “nhân duyên”, chứ chẳng phải là cái nghĩa tầm thường của 
		“nhân cùng duyên”. Hơn nữa, duyên này có khả năng thích nghi ứng dụng 
		cho tất cả mọi hiện tượng đối với tinh thần lẫn vật chất. 
		
2/ Đẳng vô 
		gián duyên, còn gọi là Thứ đệ duyên: Tương tục trong tâm, tâm sở, do một 
		sát-na trước mở lối dẫn đường làm nguyên nhân sinh khởi cho một sát-na 
		sau. Nghĩa là một sát-na trước quá khứ của tâm, tâm sở diệt đi, lại giúp 
		cho lực dụng sinh khởi một sát-na sau ở trong hiện tại. 
		
- Chữ ‘Đẳng’ 
		ở đây có nghĩa là ý nghĩ (niệm) trước đã diệt đi, ý nghĩ sau sinh 
		tiếp, thể dụng của hai ý nghĩ này đồng đẳng (bằng nhau). Ngược 
		lại, nếu một sát-na trước thuộc nhóm tâm thiện, một sát-na sau thuộc 
		nhóm tâm ác, thì tướng của sát-na trước và sau khác nhau không phải đồng 
		đẳng. 
		
- Chữ ‘vô 
		gián’ có nghĩa là thời gian của hai ý nghĩ trước sau từng sinh diệt, 
		sát-na không dừng, nên không có gián cách. Đối với các hiện tượng tinh 
		thần duyên này ít thích nghi, vì nhận thức họat động có được phải nhờ có 
		điều kiện để phát sinh. 
		
3/ Sở duyên 
		duyên: gọi tắt là duyên duyên, là chỉ cho tất cả mọi đối tượng để cho 
		tâm, tâm sở chỗ duyên vào, đó chính là tất cả mọi sự vật ngoại tại làm 
		duyên trực tiếp hay gián tiếp sản sinh ra nội tâm sở. Như sự nhận thức 
		của mắt (nhãn thức) phải dùng tất cả mọi cảnh sắc làm Sở duyên 
		duyên, sự nhận thức của tai (nhĩ thức) phải dùng mọi thứ âm thinh 
		để làm sở duyên duyên, cho đến sự nhận thức của ý, phải dùng tất cả các 
		pháp trong quá khứ, hiện tại, vị lai làm sở duyên duyên. 
		
4/ Tăng 
		thượng duyên: Ngoài ba duyên đã kể trên ra, còn tất cả mọi trợ duyên 
		khác dù là vô ngại mà đã là điều kiện nguyên nhân phát sinh ra mọi hiện 
		tượng đều thuộc vào Tăng thượng duyên. 
		
- Phật giáo 
		đem tất cả vạn pháp phân làm năm vị: Tâm pháp, tâm sở pháp, tâm bất 
		tương ưng hành pháp, sắc pháp, và vô vi pháp. Nếu đem sự sinh khởi của 
		năm vị cùng với sự quan hệ của tứ duyên mà nói thì, sự sinh khởi hiện 
		tượng tinh thần của tâm pháp cùng tâm sở hữu pháp cần phải đầy đủ toàn 
		bộ tứ duyên; nhưng trong tâm bất tương ưng hành pháp sự sinh khởi của vô 
		tưởng định cùng diệt tận định ít cần nhân duyên, đẳng vô gián duyên, 
		tăng thượng duyên. Còn sở duyên duyên thì không cần thiết, vì nhân này 
		đối với hai định vô tưởng cùng diệt tận, thuộc về vô tâm định; hơn nữa, 
		đã không có tác dụng của tâm thức nên không cần sở duyên duyên. Vì sở 
		duyên duyên cần dùng tâm thức làm điều kiện tương ưng tác dụng sinh 
		khởi, cho nên sự sinh khởi của hai định này không cần sở duyên duyên. Sự 
		sinh khởi của tâm bất tương ưng hành pháp, mười hai pháp khác kia cùng 
		sắc pháp đều ít cần đến nhân duyên cùng tăng thượng duyên. Nhân này, sắc 
		pháp cùng mười hai loại khác kia, tâm bất tương ưng hành pháp đã không 
		có tâm thức tác dụng, cho nên không có sở duyên duyên, hai tướng sinh 
		khởi trước sau của chúng cũng chẳng phải đồng đẳng, hơn nữa không có sự 
		tương tục thứ tự cố định nào, cho nên không đồng không duyên gián đọan
		(vô đẳng vô gián duyên). Vô vi pháp, là chỉ cho thể tánh chân 
		thật các pháp không có sinh diệt biến hóa, tự nhiên không có điều kiện 
		nguyên nhân sinh khởi để nói, cho nên nó ở ngoài phạm vi của tứ duyên 
		này. 
		
- Nếu căn cứ 
		vào thời gian không gian mà nói thì, Đẳng vô gián duyên thuộc nhân tố 
		thời gian, sở duyên duyên thuộc nhân tố không gian, còn nhân duyên, tăng 
		thượng duyên thì dành cho cả hai thời-không. 
		
- Theo các 
		nhà Tiểu thừa ngoài tứ duyên ra, họ còn lập ra thuyết lục nhân, và sự 
		quan hệ giữa tứ duyên và lục nhân ở đời sau cũng có sự sai khác. 
		
		
II – Theo 
		chủ trương của lục nhân thì: 
		
Các nhà Tiểu 
		thừa đã đem nhân của tất cả các pháp phân ra làm sáu loại như sau:
		
		
1/ Năng tác 
		nhân (kāraṇa-hetu): Vật nào khi sinh ra, phàm tất cả sự vật không 
		phải là đối tượng phát sinh ra tác dụng trở ngại, thì sự vật ấy là năng 
		tác nhân, phạm vi của nó rất rộng. Gồm có hai loại: 
		
a/ Hữu lực 
		năng tác nhân (cho sức, tăng sức): như nhãn căn sinh ra nhãn 
		thức, đất cát sinh ra thảo mộc, song đối với pháp hữu vi, ít giới hạn.
		
		
b/ Vô lực 
		năng tác nhân (không trở ngại): như hư không đối với vạn vật, 
		dành chung cho tất cả pháp vô vi. 
		
Quả có được 
		của nhân này là quả tăng thượng. 
		
2/ Câu hữu 
		nhân (sahabhū-hetu): là nhân câu hữu với quả. Gồm có hai loại:
		
		
a/ Nhân câu 
		hữu hỗ tương với quả. 
		
b/ Nhân câu 
		hữu đồng nhất với quả. 
		
Quả có được 
		của nhân này là quả sĩ dụng. 
		
3/ Đồng loại 
		nhân (sabhāga-hetu): là tất cả các pháp hữu vi thuộc phạm vi quá 
		khứ hiện tại mà pháp nào cùng loại hay tương tợ thì đều là nhân, cho nên 
		gọi là đồng loại nhân. Như pháp thiện làm nhân cho pháp thiện, cho đến 
		pháp vô ký làm nhân cho pháp vô ký. Pháp đồng loại này căn cứ vào tánh 
		thiện ác mà lập. Quả có được của nhân này là quả đẳng lưu. 
		
4/ Tương ưng 
		nhân (samprayukta-hetu): Lúc nhận thức mới phát sinh, tâm cùng 
		tâm sở đồng thời phát khởi tương ưng, hỗ tương nương vào nhau mà tồn 
		tại. Cho nên gọi là tương ưng nhân. Quả có được của nhân này là quả sĩ 
		dụng. 
		
5/ Biến hành 
		nhân (sarvatraga-hetu): Chỉ cho phiền não có khả năng biến đi 
		khắp đối với tất cả các pháp nhiễm ô mà nói. Cùng với đồng lọai nhân ở 
		trên là pháp nhân quả dị thời trước sau, song vì đồng loại nhân thông 
		đối với tất cả các pháp, trong khi biến hành nhân thì do mười một biến 
		hành trong tâm sở biến sinh khắp tất cả các hoặc, cho nên gọi là biến 
		hành nhân. Mười một biến hành nghịch lại đối với lý của tứ đế, trong bảy 
		loại phiền não thuộc khổ đế như thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ 
		kiến, giới cấm thủ kiến, nghi và vô minh, cùng bốn loại phiền não của 
		tập đế như tà kiến, kiến thủ kiến, nghi, vô minh, mười một loại phiền 
		não này tức là nhân sinh khởi ra tất cả các loại phiền não. Quả có được 
		của nhân này gọi là đẳng loại quả. 
		
6/ Dị thục 
		nhân (vipāka-hetu): Chỉ cho nhân nghiệp thiện ác của quả báo khổ 
		vui trong ba đời. Như ác pháp ngũ nghịch cảm báo địa ngục, thiện hữu lậu 
		của thập thiện chiêu quả cảm lên trời. Quả địa ngục cùng lên trời kia 
		đều chẳng phải thiện, chẳng phải ác, mà lại lệ thuộc vào tánh vô ký. Ở 
		đây, vì nhân thiện nhân ác đều cảm quả vô ký nhân quả dị lọai mà thuần 
		thục, cho nên nhân này gọi là nhân dị thục. Quả có được của nhân này gọi 
		là quả dị thục theo Câu Xá luận. 
		
- Như Câu Xá 
		luận bảo sớ 7 thì, sự nhiếp thâu giữa tứ duyên và lục nhân giống như 
		trên đã nói là Năng tác nhân bao gồm cả ba duyên: đẳng vô gián duyên, sở 
		duyên duyên, tăng thượng duyên, câu hữu nhân cùng năm nhân khác kia thâu 
		nhiếp chung cả nhân duyên. Theo Câu xá luận Quang ký 7 thì, tứ duyên bao 
		quát cả phạm vi rộng rãi, còn lục nhân thuộc phạm vi hẹp, cho nên tứ 
		duyên bao hàm cả lục nhân, ngược lại lục nhân không thể hàm nhiếp tứ 
		duyên được. Có nghĩa là câu hữu nhân cùng ngũ nhân và nhân duyên chắc 
		chắn có thể hỗ tương thông nhiếp lẫn nhau; song năng tác nhân tuy thông 
		với tăng thượng duyên, nhưng chưa có thể hàm nhiếp hai duyên đẳng vô 
		gián và sở duyên. 
		
Trên đây là 
		quan điểm của các nhà Tiểu thừa chủ trương về tứ duyên và lục nhân.
		
		
- Theo thuyết 
		của các nhà Đại thừa thì chủ trương tứ duyên và thập nhân, chứ không 
		phải là lục nhân như các nhà Tiểu thừa. Dưới đây là sự hình thành của tứ 
		duyên và thập nhân, theo cái nhìn của các nhà Đại thừa: 
		
B – NHÂN 
		QUẢ THEO CÁC NHÀ ĐẠI THỪA 
		
I – Theo 
		chủ trương của tứ duyên thì gồm có: 
		
1/ Nhân 
		duyên: trong các pháp hữu vi có khả năng tự thân sinh ra từ quả. Như 
		giống lúa mạch sinh ra lúa mạch, giống lúa dé sinh ra lúa dé. Thể tánh 
		của nhân duyên này có hai: 
		
a - Chủng tử
		(hạt giống), chỉ cho tất cả các pháp thiện, ác, vô ký hàm tàng 
		trong thức thứ tám A-lại-da chủng tử này đối với dị thời (một lúc nào 
		đó) có thể dẫn sinh chủng tử tự loại (chủng tử sinh chủng tử), 
		đối với đồng thời (cùng lúc) có khả năng sinh khởi hiện hành tự 
		loại (chủng tử sinh hiện hành). 
		
b - Hiện 
		hành, chỉ cho hiện hành của bảy chuyển thức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, 
		ý, mạt-na có khả năng huân tập thành chủng tử tự loại trong bản thức 
		(đệ bát thức) (hiện hành huân chủng tử). 
		
2/ Đẳng vô 
		gián duyên: là quan hệ sinh khởi của tâm, tâm sở do ý nghĩ trước dẫn 
		sinh ý nghĩ sau, từng ý nghĩ, ý nghĩ tương tục không có gián đọan. Chủ 
		trương này cùng với Tiểu thừa trên đại thể là tương đồng, duy chỉ có thể 
		của bát thức là mỗi tự thể có sự sai khác, cho nên mỗi tự thể sản sinh 
		ra quan hệ tương tục trước sau không gián đọan; Tiểu thừa chấp nhận sự 
		gián đọan của dị thức cũng có thể hỗ tương hình thành cùng đồng sự quan 
		hệ liên tục của vô gián đoạn. 
		
3/ Sở duyên 
		duyên: phàm đối tượng của tâm, tâm sở thành tựu thì đó là nguyên nhân, 
		mà khiến cho tâm, tâm sở lúc sản sinh ra kết quả, thì đối tượng của tâm, 
		tâm sở gọi là sở duyên duyên. Theo các nhà Duy thức tông đặc biệt phân 
		ra làm hai loại thân sở duyên duyên và, sơ sở duyên duyên. Như trong 
		Thành Duy thức luận 7 (Đ. 31, tr. 40c) đã thuyết: “Nếu cùng với 
		thể năng duyên không lìa nhau thì, những gì lo mượn (sở lự thác) 
		trong kiến phần…, nên biết đó là thân sở duyên duyên; nếu cùng với thể 
		năng duyên lìa nhau thì, những gì lo mượn trong chất năng khởi, nên biết 
		đó là sơ sở duyên duyên.” Ở đây, chính là cái nghĩa thâm sâu mà các nhà 
		Tiểu thừa chưa bàn tới. 
		
4/ Tăng 
		thượng duyên: Cũng như những gì các nhà Tiểu thừa đã chủ trương, ngoài 
		điều kiện nguyên nhân sinh khởi tất cả các pháp như ba duyên đã ghi 
		trên, duyên này phạm vi thật là rộng rãi, như lục nhân của các nhà Tiểu 
		thừa đã nói, tất cả đều được thu nhiếp vào trong này. 
		
- Theo các 
		nhà Đại thừa, nhất là các nhà Duy thức thì, tứ duyên y cứ vào mười nhân 
		làm chỗ nương tựa (sở y xứ) mà thuyết minh về mọi hiện tượng từ 
		tinh thần đến vật chất đều phát sinh ra từ mười chủng lọai nguyên nhân 
		này mà có được sự hiện hữu: 
		
II – Theo 
		chủ trương của thập nhân thì gồm có: 
		
1. Tùy thuyết 
		nhân: là y cứ vào xứ là ngôn ngữ mà lập, tức là tùy theo sự thấy nghe 
		hiểu biết về đối tượng vào lúc bấy giờ mà nói về nghĩa của chúng, thì 
		ngôn ngữ của người nói (năng thuyết) làm nhân cho những điều nói 
		ra (sở thuyết). 
		
2. Quán đãi 
		nhân: y cứ vào xứ là lãnh thọ mà lập, tức là cần xem xét sự sinh khởi 
		hình thành có được của mọi sự, và nhờ kết quả của chúng (sở đãi) 
		làm nhân cho năng đãi: ví như dùng tay là nhân nên có sự tác động của 
		việc cầm nắm. 
		
3. Khiên dẫn 
		nhân: y cứ vào xứ là tập khí mà lập, tức là những chủng tử chưa thuần 
		đượm (vị nhuận: chưa thấm ướt đủ để nảy mầm) chín muồi cần phải 
		có thời gian lâu dài dẫn đến kết quả của chính nó. 
		
4. Sinh khởi 
		nhân: y cứ vào xứ là chủng tử hữu lậu chín mùi mà lập, tức là những 
		chủng tử đã đượm chín, sẽ sinh khởi kết quả của chính nó tức thì. 
		
		
5. Nhiếp thụ 
		nhân: y cứ vào các y xứ: vô gián diệt, cảnh giới, (bảy) căn, tác 
		dụng (thức thứ tám), sĩ dụng, chân thật (chân thật kiến y xứ: 
		y xứ là kiến chân thật) đầy đủ cả sáu y xứ mà lập. Ngoài chủng tử 
		ra, các duyên nhiếp thọ nhau mà sinh khởi quả. 
		
6/ Dẫn phát 
		nhân: y vào xứ là tùy thuận mà lập. Các lọai thiện, ác, vô ký hiện ra 
		các pháp có khả năng dẫn khởi thắng hạnh đồng loại cùng, nhân pháp vô 
		vi. 
		
7/ Định biệt 
		nhân: còn gọi là định dị nhân, y vào là công năng sai biệt mà lập. Tất 
		cả các pháp hữu vi tự chúng dẫn đến chứng đắc từ quả mà không bị tạp 
		loạn. 
		
8/ Đồng sự 
		nhân: y vào xứ là hòa hợp mà lập. Do bảy nhân trên cùng quả hòa hợp làm 
		một. 
		
9/ Tương vi 
		nhân: y vào xứ là chướng ngại mà lập. Vì trái duyên là tánh, nên đối với 
		mọi việc sinh, trụ, thành, đắc của các pháp có sự chướng ngại. 
		
		
10/ Bất tương 
		vi nhân: y vào xứ là không chướng ngại mà lập. Đối với sinh… của các 
		pháp không chướng ngại. 
		
- Mười nhân 
		này lấy hạt giống (chủng tử) thành thục của lúa làm thí dụ mà 
		thuyết minh đối với mọi hiện tượng sinh khởi của chủng tử A-lại-da thức 
		cùng, tính quyết định tác dụng mọi họat động của con người, ảnh hưởng 
		đến tính tất nhiên của nghiệp báo luân hồi. 
		
- Nếu căn cứ 
		vào sự sinh khởi của các pháp cùng sự liên hệ của tứ duyên mà nói thì, 
		Đại thừa chấp nhận sắc pháp cùng sự sinh khởi của các chủng tử, ít cần 
		nương vào nhân duyên cùng tăng thượng duyên, nhân này sắc pháp cùng 
		chủng tử đều chẳng phải là pháp duyên lự, cho nên không có sở duyên 
		duyên; lại nữa nhiều loại cùng chuyển biến mà không có trước sau, bằng 
		nhau, nên không có đẳng vô gián duyên. Tâm pháp, tâm sở pháp về mặt pháp 
		tướng thì giống nhau, cần phải có đầy đủ tòan bộ tứ duyên sau mới có 
		sinh khởi. 
		
 C – QUAN 
		ĐIỂM TỨ DUYÊN NGŨ QUẢ - TIỂU THỪA VÀ ĐẠI THỪA 
		
- Đối với 
		cách giải thích đơn giản riêng rẽ về tứ duyên, ngũ quả {Đẳng lưu quả 
		(niṣyanda-phala), Dị thục quả (vipāka-phala), Ly hệ quả 
		(visaṃyoga-phala), Sỹ dụng quả (puruṣakāra-phala) và, Tăng 
		thượng quả (adhipati-phala)} thì giữa Tiểu thừa và Đại thừa cũng 
		không đồng quan điểm. Theo các nhà Duy Thức thì: Khi chúng ta đã thừa 
		nhận vũ trụ vạn hữu đều do chủng tử hàm tàng trong A-lại-da thức biến 
		hiện ra, vì do chủng tử biến hiện nên các pháp trở thành sai biệt, chúng 
		phải kinh qua quan hệ nhân quả hai lớp (nhị trùng) ba pháp 
		(Chủng tử sinh hiện hành, hiện hành huân chủng tử và, chủng tử sinh 
		chủng tử: 1. hiện hành sản sinh bởi chủng tử; 2. chủng tử huân tập bởi 
		hiện hành; 3. chủng tử sản sinh bởi chủng tử). Đây là ba pháp nhân 
		quả triển chuyển đồng thời, là dụng ngữ của nhân quả biểu thị chủng tử 
		cùng hiện hành hỗ tương của tông Duy thức. Tông Duy thức chấp nhận chủng 
		tử trong đệ bát thức và, chúng cần các duyên hoà hợp mà khởi lên hiện 
		hành; vả lại pháp hiện hành này, ngay trong sát-na hiện hành, chủng tử 
		kia cũng huân tập đối với đệ bát thức (bản thức), nên gọi là 
		“Chủng tử sinh hiện hành, hiện hành huân chủng tử.” Lúc này, chủng tử 
		năng sinh, và hiện hành năng huân cùng, chủng tử sở huân của sở sinh, cả 
		ba hỗ tương triển chuyển thành ra tác dụng, mà biến hiện thành sum la 
		vạn tượng, quan hệ nhân quả này thuộc về sát-na đồng thời, không phải là 
		dị thời, nên chúng thuộc nhân quả đồng thời. Ờ đây các pháp quá khứ vị 
		lai, chủng tử của chúng cùng quan hệ nhân quả của hiện hành đều tương 
		tục cùng lúc, như bật đèn sinh lửa, ngọn lửa sinh lửa đuốc. Trong đó, 
		quan hệ chủng tử sinh chủng tử thuộc nhân quả dị thời; quan hệ chủng tử 
		sinh hiện hành, hiện hành huân chủng tử thuộc nhân quả đồng thời. Ngoài 
		ra trong lục nhân, ngũ quả sự quan hệ giữa dị thục nhân cùng dị thục quả 
		cho đến sự liên hệ của nhân đồng lọai, nhân biến hành cùng đẳng lưu quả 
		tất cả đều thuộc nhân quả dị thời. Còn sự quan hệ của câu hữu nhân, 
		tương ưng nhân cùng sĩ dụng quả (còn gọi là công dụng quả) thì 
		thuộc nhân quả đồng thời. Trong khi sự quan hệ của năng tác nhân 
		(nhân tạo tác) cùng tăng thượng quả (quả tăng thượng) thì 
		thuộc sự quan hệ nhân quả vừa đồng thời vừa dị thời. Hơn nữa, sự quan hệ 
		của đồng lọai nhân cùng đẳng lưu quả, chúng dùng pháp tự lọai làm nhân 
		để dẫn sinh đến quả đẳng lưu đồng lọai, cho nên chúng thuộc nhân quả tự 
		lọai. 
		
- Hành vi của 
		chúng sinh có khả năng dẫn sinh ra nhân quả dị thời, tức là khi chúng ta 
		tạo nhân nghiệp thiện thì ắt phải nhận quả báo thiện, tạo nhân nghiệp ác 
		ắt phải chịu qủa báo ác. Đây gọi là nhân thiện quả thiện, nhân ác quả 
		ác, hay còn gọi là nhân thiện quả vui, nhân ác quả khổ. Ở đây, do hai 
		nghiệp thiện ác mà chiêu cảm quả báo thiện ác hay vui khổ, nhưng nếu 
		chúng ta tạo tác việc phi thiện phi ác thì chúng thuộc về “tánh vô ký”. 
		Nhân quả dị thời không những chỉ có giá trị trong hiện tại, mà chúng còn 
		có giá trị trong tương lai, có thể là trong một đời, trong hai đời, 
		trong ba đời, tuỳ theo tác nhân tạo ra nghiệp lực mạnh hay yếu, dày hay 
		mỏng mà chúng ta đã tạo ra thuộc hành vi thiện hay ác, thì cũng theo đó 
		mà nhận lãnh quả báo thiện hay ác sau đó nanh hay chậm. 
		
- Lý các loại 
		nhân quả này nghiễm nhiên hiện hữu một cách trật tự không rối loạn qua 
		nhân quả báo ứng. Chúng luôn luôn tuỳ thuộc vào sức mạnh của nghiệp 
		thiện ác, mà theo đó tuần tự đi thọ quả báo tiếp theo từ những tác nhân 
		đã tạo ra trước đó. Nếu chúng ta không thấy được sự tồn tại của cái lý 
		nhân quả, thì chúng ta sẽ bị rơi vào trong tư tưởng kiến giải phủ nhận 
		nhận quả. 
		
- Hơn nữa, 
		nếu chúng ta cũng đứng trên sự quan hệ nhân quả mà thật hành tu tập theo 
		đạo giáo, phù hợp tuỳ theo từng căn cơ với chính mình, qua các thừa 
		trong ngũ thừa giáo mà đức Phật đã để lại, như những lý mà chúng ta đã 
		luận bàn ở trên, thì sẽ nhờ vào nhân tu hành mà có thể chiêu cảm quả 
		thành Phật. Ở đây gọi là tu nhân đắc quả, tu nhân cảm quả, hay thù nhân 
		cảm quả. 
		
- Ngoài những 
		quan hệ trên, do nhân thiện ác mà chiêu cảm quả báo vui khổ. Ở đây còn 
		có sự quan hệ nhân quả giữa dị thục nhân và dị thục quả, hoặc do phước 
		đức thiện nghiệp của thế gian mà chiêu cảm quả vui nhơn thiên, đây gọi 
		là quan hệ nhân quả của nhân phước cùng quả phước; hay do tu trập trí 
		tuệ có khả năng chiêu cảm quả báo giác ngộ, đây gọi là quan hệ nhân quả 
		của trí nhân cùng trí quả. 
		
- Ở trên 
		chúng tôi đã trình bày ba loại quan hệ nhân quả gọi là tam nhân, tam 
		quả. Nhưng vẫn còn một loại nhân quả khác nữa, đó là nhân quả ba đời, 
		nhân quả báo ứng v.v… có rất nhiều hệ thống quan hệ nhân quả chỉ cho dị 
		thục nhân, cùng dị thục quả. Những nhân quả được quan niệm như vậy đều 
		lệ thuộc vào thời gian tính, và được đánh giá như là nền tảng cơ bản cho 
		đạo đức học nhân sinh, là luật tắc của mọi trật tự trong thế giới vũ trụ 
		này. Nhân quả được hình thành theo thời gian thì sự quan hệ của chúng 
		được phân định trước sau, nghĩa là nhân luôn luôn đi trước và quả xuất 
		hiện sau nhân hòan thành tất cả mọi chức năng đủ, thì chúng mới xuất 
		hiện, cách hình thành nhân qua lệ thuộc thời gian, thì nhân quả này được 
		gọi là nhân quả dị thời. Nhân quả dị thời này là từ đối lập với nhân quả 
		đồng thời. Các nhà Duy Thức chủ trương tự lọai của chủng tử tương tục 
		không dứt, nhân của niệm trước sinh ra quả của niệm sau, hai thời gian 
		trước và sau là hai thời gian khác nhau, cho nên gọi là dị thời. Ở đây 
		chỉ cho quan hệ chủng tử sinh chủng tử trong chủ trương nhân quả trong 
		nhân quả bị lệ thuộc vào thời gian, nên có trước có sau, có quá khứ, 
		hiện tại, vị lai khác nhau; nhưng không những chủng tử sinh chủng tử, mà 
		chủng tử còn sinh hiện hành, hiện hành huân chủng tử, do đó chủng tử 
		cùng hiện hành trở thành quan hệ nhân quả đồng thời. Vậy trong một pháp 
		được hình thành có tiền nhân hậu quả trong liên hệ dị thời, nhưng sự hỗ 
		tương của một pháp, hai pháp… là nhân quả đồng thời như trường hợp của 
		tim đèn và, ngọn lửa, lau nương vào nhau thành bó lau hiện hữu. Thành 
		Duy Thức luận 8 (Đ. 31, No: 1586), nói: “Hiện hành, chủng tử tuy 
		khác lọai, nhưng hỗ tương không chống nhau, một thân cùng lúc sinh ra 
		tác dụng, không như chủng tử đồng loại sinh ra nhau trước sau mà không 
		chống trái nhau, tất chúng không cùng hiện hữu.” 
		
- Bởi tất cả 
		pháp đều do lý nhân quả mà sinh thành và hoại diệt, để thể hiện sự mê 
		ngộ của thập giới, tức là do sự quan hệ nhân quả này mà hình thành, sản 
		sinh ra các loại nhân quả thế gian, nhân quả xuất thế gian, nhân quả của 
		cõi mê, nhân quả của cõi ngộ, để phân biệt theo tác nhân và theo thọ quả 
		của chúng. Nếu căn cứ vào Tứ đế mà nói, thì hai đế Khổ, Tập là nhân quả 
		thuộc thế gian của cõi mê thế gian, hai đế Diệt, Đạo là nhân quả của cõi 
		ngộ xuất thế gian. Điều quan trọng là thật lý của nhân quả này chính là 
		giáo lý cơ bản trọng yếu của Phật giáo, ở trong các kinh điển và, nhất 
		là kinh điển Tiểu thừa hầu hết đức Phật đều lấy luật tắt nhân để xây 
		dựng luận lý về giáo học của mình, nhằm đáp ứng mọi nhu cầu căn cơ của 
		chúng sinh mà hoàn thành sự nghiệp hoằng hoá lợi sanh của mình, trong 
		việc hướng dẫn chúng sanh đạt đến nơi giải thoát cuối cùng của cõi khổ. 
		Đối với lý này sau này các bộ phái thường giải thích riêng rẽ thêm, tùy 
		theo tác nhân mà sinh ra thọ quả theo nhân quả báo ứng như ảnh theo hình 
		tương tục không dứt của nhân quả thiện ác, để hướng dẫn khuyến khích mọi 
		người thực hành theo con đường của đức Phật đã đi qua, là vượt qua cảnh 
		giới hữu lậu để đạt đến cảnh giới tịch tịnh vô lậu. 
		
- Những chủ 
		trương trên phân chia nhân quả lưu chuyển và hoàn diệt của Tứ đế để 
		thành lập Nhị đế của các nhà Tiểu thừa. Ở đây, như Câu-xá luận chủ 
		trương căn cứ về mặt hiện tượng để nói lên thuộc tính của chúng. Tuy 
		trên mặt hiện tượng biểu tượng có thể bị luật vô thường chi phối, có thể 
		biến đổi và hình thành theo thuộc tính của sự vật mà nó có tên gọi mới. 
		Nhưng dù tên gọi này có thể gọi là giả danh là Thế tục đế đi nữa, mà 
		trên mặt hiện thực bản chất của chúng thì chúng bất biến, luôn luôn hiện 
		hữu, nên chúng thuộc về Thắng nghĩa đế. Trong khi, Thành thật luận lấy 
		các pháp sắc, hương, vị cùng Niết-bàn tức là các pháp hữu vi và vô vi 
		làm Chân đế, vì chính sắc, hương, vị, và Niết-bàn là những yếu tố cơ bản 
		để hình thành tất cả các pháp qua nhân duyên để chúng hiện hữu, nên các 
		pháp kể trên chúng thuộc về Chân đế, và ngược lại những pháp được các 
		pháp làm yếu tố cơ bản để các pháp đó hiện hữu qua nhân duyên, thì các 
		pháp này được gọi là giả danh không có thật thể. Chúng chỉ mang thuộc 
		tính của các pháp cơ bản trên thôi, và như vậy sự hiện hữu của biểu 
		tượng có được này chúng thuộc về Tục đế, giống như con người do năm uẩn 
		hoà hợp mà thành nên chúng thuộc về Tục đế. Còn, Kinh bộ thì chủ trương 
		lấy sự chấp nhận thuộc trí hữu lậu về các pháp cho là Thế tục đế, và lấy 
		trí vô lậu xuất thế gian, cùng hậu đắc chánh trí thế gian làm Chân đế. 
		Luận Đại Tỳ-ba-sa thì lấy đạo lý ước định tục thành của thế gian, hay 
		mọi sự vật được lý giải thông thường của thế gian cho là Thế tục đế, và 
		lấy lý chân thật, những kiến giải triệt để của các bậc Thánh vô lậu làm 
		Thắng nghĩa đế. Nói chung Tất cả đều y cứ vào pháp hữu lậu chỉ Thế đế và 
		pháp vô lậu chỉ Thắng nghĩa đế để thiết lập Nhị đế, cho dù pháp đó là sự 
		hay là lý, là tục hay là chân, là biểu tượng hay là bản thể, là thế gian 
		hay là xuất thế gian cũng đều được qui về nhân quả của Nhị đế. 
		
		
- Nhưng nhân 
		quả mà được hình thành theo không gian, thì sự quan hệ hình thành của 
		chúng như sự nương tựa lẫn nhau của những cộng lau trong một bó lau mới 
		đứng vững được do căn và trần tạo ra cái biết không thật, nên chúng chỉ 
		là một huyễn tướng, chỉ hiện hữu giả tạm không thật có. Đó là quan hệ 
		nhân quả theo không gian của nhân quả đồng thời. Theo các nhà Duy Thức 
		chủ trương thì chủng tử là nhân nên có khả năng sinh khởi quả hiện hành, 
		nhưng hiện hành này cũng có khả năng làm nhân để huân tập quả chủng tử. 
		Chủng tử có khả năng sinh ra (năng sinh) cùng hiện hành những gì 
		được sinh ra (sở sinh) này. Chỗ huân tập của chủng tử cùng ba 
		pháp lần lượt triển chuyển cùng lúc hỗ tương làm nhân quả nên gọi là 
		nhân quả đồng thời. Triển chuyển có hai nghĩa: Hỗ tương chuyển đổi và, 
		lần lượt chuyển đổi. Ở đây chúng thuộc hỗ tương chuyển đổi. Thành Duy 
		Thức luận 8 (Đ. 31, No: 1586 tr.) nói: “Các thức năng huân từ 
		chủng tử lúc sinh, tức là có khả năng làm nhân rồi huân lại thành chủng 
		tử. Ba pháp chuyển đổi, theo nhân quả đồng thời. Như tim đèn sinh ngọn 
		lửa, ngọn lửa sinh cháy tim đèn; cũng như bó lau cùng nương tựa vào 
		nhau, nhân quả đồng thời lý không khuynh động.” 
		
- Qua những 
		trình bày trên, các vấn đề nhân quả như là một, khác, thường, vô thường; 
		nhân quả có, không; tà nhân tà quả; không nhân có quả; có nhân không 
		quả; không nhân không quả; trong nhân có quả; trong nhân không có quả. 
		Tất cả những quan niệm như vậy về nhân quả của các luận sư ngoại đạo vào 
		lúc bấy giờ đã được đức Phật liệt vào những loại tà kiến. Tà kiến vì họ 
		đã đứng vào lập trường có hoặc không lệ thuộc vào nhị nguyên tương đối 
		của thời gian để thiết lập đạo lý nhân quả. Nhân quả như thế trở thành 
		cực đoan và thiên kiến trong trói buộc. Dù biết vậy, nhưng đức Phật vẫn 
		đứng trên lập trường khế cơ khế lý thuộc thời gian mà tuyên thuyết giáo 
		pháp của mình, với mục đích là hướng dẫn mọi người biết được những 
		nguyên nhân đưa đến mọi sự trói buộc và, chỉ cho họ cách mở những trói 
		buộc đó từ tự trói tự mở cho mọi người. Đó chính là giáo lý nhân quả dị 
		thời của ngũ thừa giáo; giáo lý phù hợp với từng căn cơ của mọi người 
		chúng ta, trong việc cột trói và mở trói, để đạt đến giải thoát tất cả 
		mọi thứ phiền não trói buộc của thời gian nhân quả nhị nguyên. 
		
		
- Theo kinh 
		điển Đại thừa như kinh Niết-bàn thuyết, thì đứng về mặt tương đối thì có 
		tục, có chân, có hữu thật, vô thật; chúng là thứ ngôn ngữ biểu tượng cho 
		những thuộc tính có thề có được quả, mà chúng muốn vươn đến. Những biểu 
		tượng này cho dù là giả danh, nhưng chính chúng cũng có bản thể của 
		chính nó, cho dù trên chiều tuyệt đối ngôn ngữ khó bề tiếp cận. Do đó, 
		sự mâu thuẫn ở đây giữa Tục đế và Đệ nhất nghĩa đế dù có mâu thuẫn đến 
		đâu đi nữa trên mặt nhân quả, nhưng trên mặt duyên khởi chúng cần sự mâu 
		thuẫn này để có thể chúng tiếp cận chân lý tuyệt đối. Bởi vì chúng không 
		đòi hỏi bất cứ sự thành công nào nhờ vào ngôn ngữ khi diễn giải về 
		chúng, nếu không muốn nói là một thất bại của ngôn ngữ. Vì nếu ngôn ngữ 
		không thất bại trong việc triển khai diễn giải thì chúng đã đánh đi mất 
		bản chất của duyên khởi của nhân quả, và như vậy thì con đường Trung đạo 
		cũng khó mà hiện hữu để đưa đến cảnh giới Niết-bàn tuyệt đối. Do đó Chân 
		Tục bất nhị (chẳng phải hai) của kinh Nhân vương Bát-nhã (2, 
		Đ. 8,) chính là con đường Trung đạo từ Tục đến Chân qua bất nhị, 
		chúng thể hiện được bản thể duyên khởi nhân quả không hai. Đó chính là 
		con đường đưa đến tuyệt đối mà chúng không tự đánh mất hiện tượng biểu 
		tượng của chúng qua ngôn ngữ. 
		
- Cũng theo 
		quan điểm Trung đạo của kinh Nhân vương Bát Nhã, Trung quán luận (Đ. 
		30. No. 1565-1567, tr. 1b Mūla- madhyamakakārikā) của Bồ-tát Long 
		Thọ cũng luận rằng: Chúng ta thường hiểu quả là từ nhân duyên sanh ra. 
		Như vậy đối với nhân giống nhau hay khác? Theo quan niệm thông thường 
		thì chúng ta cho rằng quả không khác nhân, bởi nhân sanh ra quả. "Nhân 
		nào quả ấy" quan niệm như vậy không phải là sai, nhưng không phải đúng 
		hoàn toàn. Bởi vì, nếu quả giống nhân, thì nhân và quả không khác, như 
		vậy người ta đặt danh từ nhân quả để làm gì? Nhân quả không khác, có 
		nghĩa nhân tức là quả, quả tức là nhân. Và như thế nhân quả là một. Khi 
		nói trong nhân ấy đã có quả thì không cần nói quả của nhân, và trở thành 
		thừa. Hay nếu nói quả khác với nhân. Điều này cũng không đúng. Nhân 
		khác, quả khác thì cũng như nói hột xoài (nhân) sanh ra trái mít
		(quả). Quan niệm trong nhân đã có quả, trong nhân không có quả, 
		quả chẳng phải là nhân duyên, hữu quả vô quả, phi nhân, phi quả… là quan 
		niệm còn trong tư tưởng lẫn quẩn thiếu chính xác. Thấu triệt chân lý 
		Phật giáo là người phải nhận định phân minh rõ ràng các nghĩa hẹp, nghĩa 
		rộng, sự-lý và tương đối-tuyệt đối dung hòa không gian thời gian, tùy 
		duyên bất biến, bất biến tùy duyên. Đó là chính là quan điểm Trung đạo 
		của Bồ-tát Long Thọ muốn chúng ta phải nhận chân ra bộ mặt thật của các 
		pháp từ sự hiện hữu sinh khởi cho đến sự biến diệt lưu chuyển phải được 
		nhận thức một cách chính xác là: 
		
		- “Pháp do các duyên sanh, 
		
		
		Tôi nói đó là không, 
		
		Cũng chính là giả danh, 
		
		
		Cũng là nghĩa Trung đạo. 
		
		
		Chưa từng có một pháp, 
		
		
		Không từ nhân duyên sanh. 
		
		
		Cho nên tất cả pháp, 
		
		Không gì không phải Không.” 
		
		
(Đ. 30, 
		No. 1564, Trung luận 1, chương Quán Tứ đế đệ nhị thập tứ; 
		观 四 谛 品 第 二 十 四 
		Ārya-satya parīkṣā; tr. 33b.) 
		
		
		- Và trong Quán nhân quả (Đ. 30, No. 1564, Trung luận 1, chương Quán 
		nhân quả, 
		
		觀
		
		
		因
		
		
		果 
		Sāmagrī-parīkṣā, tr. 26) 
		luận bàn cũng giống như chương quán nhân duyên, tìm hiểu nhân và quả hòa 
		hiệp nảy nở ra kết quả như thế nào? Nhân có trước hay quả có trước, nhân 
		ở trong quả hay quả có sẵn trong nhân, nhân và quả là một thứ hay không 
		phải, đồng thể hay khác tánh… Nếu chúng ta quan niệm rằng nhân sanh ra 
		quả, vậy thì thử hỏi nhân và quả khác nhau hay không khác nhau? Nếu nhân 
		khác với quả, thì nhân ấy không sinh ra quả được. Như hạt lúa không thể 
		sanh cây bắp. Còn nhân quả không khác nhau, không khác tức là nhân và 
		quả là một. Là một thì không cần phân biệt đây là nhân kia là quả hay 
		nói nhân sanh ra quả. Nếu nói rằng nhân quả khác nhau, khác nhau mà có 
		sanh quả, thì quả ấy giống như phi nhân, không nhân mà có quả. Cái lỗi 
		không phải là có hay không, mà chính nguyên nhân cố chấp quyết định 
		có-không, nên thành có lỗi. Do đó chúng ta hãy nhìn sự vật như là chính 
		nó, có nghĩa là chúng ta không nhìn nó với một chủ quan tính, mà áp đặt 
		lên sự vật những nhãn hiệu mà tự thân chúng không có. Các pháp tự chúng 
		xưa nay do các duyên sinh ra, và diệt đi cũng do các duyên diệt, vì vậy 
		chúng trở thành không tánh. Vì sự hiện hữu của tướng chúng là huyễn, chỉ 
		là một giả danh để tạm gọi và phân biệt với cái khác cùng duyên khởi 
		hiện hữu bên cạnh chúng và, tánh của chúng vì là không tự hữu, nên tạm 
		gọi tánh của chúng là tánh không. Nhìn các pháp với tướng huyễn tánh 
		không là một cái nhìn như thật tri của chúng ta.