Trong vòng gần 200 năm trị vì, nhà Lý đã 
tổ chức rất nhiều lễ hội kỳ an, thí  thực cô hồn đầu năm cho toàn thể 
dân chúng Đại Việt. Chính sử như  Đại Việt  sử ký toàn thư, Đại Việt sử lược đều ghi về một trong những lễ kỳ an, thí  thực cô hồn nổi bật của vương triều này - hội đèn Quảng Chiếu
 
 Hội đèn thí thực cô hồn, cầu quốc thái dân an
 
 Đại Việt sử lược
 ghi, vào năm Canh Dần (1110): “Mùa Xuân tháng Giêng,  tổ chức hội đèn 
Quảng Chiếu ở ngoài cửa Đại Hưng” và vào năm Bính Thân (1116)  lại ghi 
“Mùa Xuân tháng Giêng tổ chức hội đèn Quảng Chiếu ở ngoài cửa Đại Hưng, 
 chế tạo nhà sư bằng gỗ cột vào đánh chuông”.
 
 Còn Đại Việt sử ký toàn thư
 ghi vào năm Canh Tý (1120) “Mùa Xuân, tháng  Hai, mở hội đèn Quảng 
Chiếu” và vào năm Bính Ngọ (1126) “Mùa Xuân tháng Giêng,  mở hội đèn 
Quảng Chiếu bảy ngày đêm. Tha người có tội ở phủ Đô Hộ, xuống chiếu  cho
 sứ thần của Chiêm Thành xem”...
Theo Đại Đức Thích Phước Đạt, trong ý 
nghĩa đó,  sự chuẩn bị lễ kỳ an - hội đèn Quảng Chiếu mà chính sử ghi 
nhận được tổ chức  hoành tráng. Văn bia Sùng Thiện Diên Linh tả
 như sau: “Dựng đài cao  Quảng Chiếu, nhắm sân trước cửa Đoan Môn, trong
 nêu một cột, ngoài đặt bảy tầng,  uốn mình rồng hình cung hiện ra mà đỡ
 lấy sen vàng, may lồng nhiễu mà che cho  lửa nến, giấu máy nhỏ dưới 
đất, xoay tròn như bánh xe, tỏa ánh sáng giữa trời  như mặt trời rực rỡ,
 lại có thánh báo nghiêm trang rõ ràng. Đền vàng điện báu  nhờ thành ý 
mà dựng nên, đặt ngôi tượng Đức Phật cao vót, dáng vẻ văn thiên,  hình 
thô vẻ lạ"...
Điểm nhấn của mô hình lễ hội này là ngôi 
tháp 7  tầng hùng vĩ với sự trang hoàng hết sức cầu kỳ bằng châu ngọc, 
được thiết kế với  các thiết bị đặt ngầm bên dưới để có thể quay chiếc 
tháp 7 tầng. Điều đáng nói  là bên trong ngôi tháp tôn trí tượng Đa Bảo 
Như Lai trên ngọn núi vàng. Hai bên  tòa Bạch Ngân đặt tượng A Di Đà và 
Đức Diệu Sắc Thân. Thứ nữa là hai tòa Điểu  Văn đặt hai tượng Đức Như 
Lai Quảng Bác Thân và Ly Bố Úy. Và cuối cùng là hai  tòa Tượng Xỉ thờ 
Đức Cam Lồ Vương và Bảo Thắng. Bảy vị Như Lai này tuy thuộc hệ  Mật 
giáo, nhưng lại được đề cập tới rất giới hạn như một hệ thống bảy Đức 
Như  Lai.
Theo các bản kinh như Du già tập yếu cứu A  Nan nghi quỷ, Du già tập yếu diệm khẩu thí thực nghi kinh và Cứu bạt  diệm khẩu ngạ quỷ Đà la ni thuộc Đại tạng kinh thì
 7 vị Như Lai  này có chung một chức năng độ trì được thực thi trong các
 nghi thức chẩn tế, bạt  độ, cúng ngạ quỷ của Phật giáo. Và trong một lễ
 kỳ an - hội đèn Quảng Chiếu vui  như lễ hội dân tộc nhằm “dốc hết hòa 
vui của thiên hạ, để đêm trở thành ngày”  không thể không có mô hình 
“thất bảo Như Lai” vừa mang tính hoành tráng vừa mang  giá trị tâm linh 
kết nối yêu thương các loài, các thế hệ với quan điểm đầy chất  nhân văn
 “âm siêu dương thái”.
Rõ ràng việc thờ tự và đảnh lễ 7 vị Phật này  trong lễ hội kỳ an trọng đại đầu năm như thế này là có lý do của nó. Bản kinh Cứu bạt diệm khẩu ngạ quỷ đà la ni
 kể rằng có một con quỷ đói hiện ra  trước mặt A Nan, một trong Thập đại
 đệ tử của Phật Thích-ca Mâu-ni, báo rằng ba  ngày nữa là chết. Trước 
cái cảnh bi thảm như thế, A Nan đã hỏi ngạ quỷ ấy làm  sao thì khỏi 
chết. Quỷ bảo rằng phải bố thí cho nó. A Nan đến thỉnh cầu Phật và  được
 Ngài chỉ cho nghi thức cúng quỷ đói. Nhờ việc bố thí đó mà A Nan đã 
không  những thoát chết mà còn trường thọ.

Hội đèn Quảng Chiếu là một trong những lễ kỳ an  nổi bật của vương triều Lý. (Ảnh minh họa)
Đúng như bản kinh chép “Ban thức ăn cho 
quỷ đói  thì liền có thể đầy đủ được vô lượng công đức, giống như công 
đức cúng dường cho  trăm ngàn ức Như Lai không sai khác. Được thọ mạng 
lâu dài, tăng thêm sức lực và  vẻ đẹp, căn lành đầy đủ. Hết thảy A tu 
la, Dạ xoa, La sát, các ác quỷ thần không  dám xâm hại, lại thành tựu 
được vô lượng công đức thọ mạng”. Cho nên, trong một  thời khắc quan 
trọng của ngày đầu năm, hẳn nhiên người ta càng mong muốn được  Phật 
Thánh độ trì cho mình và mọi người được sống lâu trường thọ, sắc thân 
thêm  tươi đẹp. Xem ra từ một nghi thức cúng cho quỷ đói, nó đã được đưa
 vào trong  nghi lễ cầu an, cũng như trong các lễ hội dân tộc, phục vụ 
cho người còn sống. 
 
 Tại đây ta dễ dàng hiểu tại sao một lễ hội
 đèn Quảng Chiếu rực sáng suốt đêm như  ánh mặt trời chiếu ban ngày, 
nhộn nhịp và tưng bừng như thế lại có thêm nghi  thức cúng quỷ đói của 
Mật giáo. Bởi vì có gì hạnh phúc hơn bằng khi con người  được Phật độ 
trì sống lâu, mạnh khỏe và sắc đẹp thêm bội phần. Cũng vì lẽ này mà  
trong tâm thức người Việt Nam kể từ đó, bất cứ sự kỳ nguyện nào, nghi 
thức cúng  cấp nào phục vụ cho người sống đều kèm theo nghi cúng cô hồn 
để nguyện cầu tăng  phước và tăng thọ...
Công phu việc phục dựng Hội đèn Quảng Chiếu 
 
 Qua
 sự biến động của lịch sử, lễ hội đèn Quảng Chiếu đã bị mai một và tới  
nay tư liệu lưu truyền lại rất hiếm hoi. Sau khi Hoàng thành Thăng Long 
được  công nhận là Di sản văn hóa thế giới, việc phục dựng lễ hội này 
càng trở nên cần  thiết để đề cao giá trị văn hóa di sản. Nhưng việc 
phục dựng như thế nào để mang  đậm nét truyền thống, hài hòa với tính 
thời đại đang được các nhà quản lý, nhà  nghiên cứu văn hóa dày công sưu
 tầm.
Để phục vụ cho việc phục dựng hội đèn, 
Trung tâm  bảo tồn khu di tích Cổ Loa - Thành cổ đã cậy nhờ các nhà 
nghiên cứu và cất công  sưu tầm tư liệu lịch sử, tư liệu dân gian, Hán 
Nôm, truyền thuyết và giai thoại  xung quanh hội lễ này. Hội thảo về nội
 dung này vừa diễn ra tại Hà Nội cho thấy,  hầu hết các nhà khoa học đều
 thống nhất quan điểm, lễ hội sẽ được tổ chức vào  mùa xuân và ở kinh 
thành Thăng Long, ngay trước Đoan Môn, tức trước sân "triều"  của triều 
đình.
Theo kịch bản, lễ hội chia làm hai phần: 
phần lễ  và phần hội trong đó quan trọng nhất là phần lễ. Khai lễ là 
phần dâng hương,  thắp đèn Quảng Chiếu, Thỉnh Phật, cúng triệu thỉnh Bác
 bộ Kim cương, dâng lục  cúng. Tại lễ hội sẽ tụng kinh Dược Sư và mọi 
người đều có thể thắp nến xung  quanh cây đèn chủ cầu mong trí tuệ.
Lễ hội đèn Quảng Chiếu chính là lễ hội 
cung đình.  Vì vậy, khi phục dựng lại lễ hội này, các nhà nghiên cứu văn
 hóa, tôn giáo cho  rằng cần nâng lễ hội lên tầm quốc gia để xứng đáng 
với vị trí của nó. Tại đây,  hình ảnh quốc gia, dân tộc gắn liền với lễ 
hội.
Một mặt, ý nghĩa của lễ hội chính là cầu 
nguyện,  ước muốn cho đất nước được thanh bình, hạnh phúc và thịnh vượng
 nên lễ hội đèn  Quảng Chiếu sau này còn được gọi là đèn Diên Mệnh hoặc 
đèn Trường Thọ hay lễ hội  Trường Thọ cũng đã phản ánh được điều đó.
Và một trong những yếu tố quan trọng cấu 
thành  hội lễ này chính là đèn Quảng Chiếu. Theo các nhà nghiên cứu, một
 là phục dựng  theo cái "cổ truyền", tức phục dựng y nguyên, không dùng 
động cơ, chỉ dùng máy  cơ học (quay tay). Tuy nhiên, theo cách này thì 
gặp khó khăn vì nguyên liệu hiếm,  phong cách nghệ thuật điêu khắc thời 
Lý không dễ có được sự nhất trí của các nhà  chuyên môn. Cách thứ hai là
 sáng tác và cách tân dựa trên nguyên lý của đèn đã  được mô tả.
Theo Vân Nhi - ĐVO