Thi sĩ Minh Đức Triều Tâm Ảnh sinh năm 1944 tại Hương Thủy, Thừa 
Thiên Huế là một bậc tài hoa đủ điệu : Nhà thơ, nhà văn, 
nhà biên khảo, nhà thư pháp, nhà mỹ thuật tạo vườn cảnh đồng thời là một đại sư 
theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy Nam tông với pháp hiệu Giới Đức. Xuất 
gia năm 1973 ở Vũng Tàu rồi làm du tăng khất sĩ qua nhiều xứ miền Sài Gòn, Đà 
Lạt, Nha Trang, Đà Nẵng…
Cuối năm 1974 dừng gót lữ phong trần dưới chân đèo Hải Vân lập 
cảnh chùa Huyền Không thơ mộng bên triền núi nhìn ra biển trời lộng gió trùng 
khơi gần Lăng Cô xanh thẳm. Năm 1978 vì sự đổi thay của thời cuộc, Huyền Không 
đành chấp nhận dời về Hương Trà, Huế, nhà thơ cùng với sư Pháp Tông và Huệ Tâm 
tạo dựng vườn thiền mới theo phong cách Nhật Bản ngoạn mục bên một con sông lau 
lách cạnh làng quê yên ả dặt dìu :
Chùa quê trăng ngủ mái rêu
Đất nghèo hoa nở sớm chiều tự 
do
Qua sông ta chẳng lụy đò
Hú dài một tiếng bỏ bờ rong 
chơi
Chơi rong một trận bồng bềnh trên sóng gió bể dâu cho đến năm 
1989 hưởng ứng phong trào trồng cây xanh, Triều Tâm Ảnh lên núi cao vào tận rừng 
sâu heo hút Hòn Vượn, chọn một khu đất hoang sơ rộng rãi có triền đồi thung lũng 
hồ nước lập nên phong cảnh Huyền Không Sơn Thượng. Bằng con mắt thẩm mỹ, dưới 
bàn tay nghệ sĩ sắp đặt tài tình đã biến nơi hoang dã thiên nhiên thành cảnh trí 
diễm tuyệt đẹp lạ lùng chẳng khác chi cảnh thần tiên trong truyện cổ tích. Giữa 
khung cảnh núi rừng tịch mịch tĩnh lặng, thấp thoáng vài mái thảo am, ẩn hiện 
mấy nhịp cầu bắt qua hồ nước xanh ngần, phất phơ trúc biếc thảo hoa và có lẽ đó 
cũng là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời ấn tượng nhất ở nơi “Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ. 
Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn.”
Hồn thơ hồn nhạc hòa quyện cùng hồn thiêng sông núi mỹ lệ 
để thi sĩ tiêu dao ngày tháng từ thuở nọ cho đến bây giờ.
Thơ và hơi thở cùng chan chứa giữa lòng núi trầm sâu tĩnh  
lặng :
Lắng nghe  hơi
thở vào ra
Ngàn năm thân thế sương 
sa đầu cành
Lắng nghe hơi thở mong manh
Sợi thương sợi nhớ dệt thành 
mộng con
Lắng nghe hơi thở mỏi mòn
Trái tim nhịp đập mãi còn lang thang
Lắng nghe hơi thở dịu dàng
Câu thơ đại định non ngàn vắng 
không
Rỗng rang nhập cảnh giới tâm nguyên thiền định, thở bầu không khí 
khoáng đãng vùng thượng sơn, bồng tênh trên tinh thần hân hoan sáng tạo diệu 
thường, dường như tâm hồn thi nhân đã khai mở được mạch ngầm tâm linh sâu thẳm 
nên trào tuôn suối nhạc nguồn thơ tràn bờ chảy lai láng rạt rào. Kỳ lạ là niềm 
cảm hứng, sức sáng tạo dào dạt suốt bao nhiêu năm trường vẫn thường xuyên liên 
tục đều đều. Nếu như cuồng sĩ Bùi Giáng uống rượu lu bù, nhảy múa quay cuồng 
giữa ồn ào phố chợ cũng ra thơ tràn lan lấp lánh thì ẩn sĩ Triều Tâm Ảnh ngồi 
tịch nhiên bất động giữa thâm sơn cùng cốc vẫn trào dâng không ngớt thơ văn, thư 
pháp rồng bay phượng múa như thường :
Tháng ngày ăn móc uống sương
Lá đùa nắng nhẹ rễ vươn gió 
ngàn
Non sâu ẩn giả mơ màng
Gặp thời hợp tiết cao sang 
hiển màu
 
Nỗi buồn không phủi cũng rơi
Niềm vui thư 
thái cười tươi với mình
Nhìn xem hoa cỏ hữu tình
Mở ra vô tận trang kinh đời 
này
 
Bước ra thấy núi tọa thiền
Bước vô thấy Phật an nhiên mỉm 
cười
Trong ngoài chẳng thấy chữ lời
Mình còn ham viết bụi rơi cửa 
sài
Viết và viết miên man, sáng tạo và sáng tạo không ngừng nghỉ vì 
thi nhân đã chạm được mạch ngầm tâm tư cảm xúc vi diệu cùng niềm hạo nhiên chi 
khí làm bừng dậy cháy lên rực ngời ngọn lửa trong tim hồn rộn rã hòa âm thâm 
viễn uyên  tư :
Từ ngày đem lửa lên  
non
Đốt kinh soi chữ lối mòn mù 
sương                                                     
Nhen tim ấm áp khu vườn
Đồi đông hạo khí tùng vươn 
ngọn tùng
Tùng xanh trúc biếc thông ngàn quyện vờn gió lộng không gian tịch 
mịch, lồng bóng hồ trăng thanh tịnh cùng hợp tấu ngân nga  quá nhiệm mầu vô 
lượng nghĩa thanh tân mới lạ, hòa chan diệu ảo bao nhạc khúc thiên nhiên :
Chuông sương tỉnh thức non 
triền
Kinh chiều cây cỏ 
an thiền đã lâu
Trăng khuya chữ trắng sơn đầu
Lời vô lượng nghĩa nhiệm mầu 
thắng hương
 
Cần cù đất đá hóa văn
Thông ngàn trỗi nhạc hồ trăng 
dập dờn
Cỏ hoa lát thảm mảnh hồn
Hương thơ thấm tận đầu non cõi 
huyền
Huyền Không Sơn Thượng đương nhiên là một chốn miền cố quận, là 
cõi giao cảm thâm tình chí cốt, là bằng hữu tri âm tri kỷ  đi về :
Tung đốm lửa vào lòng khe
Cháy bùng con nước đi về hạo 
nhiên
Lá xanh ngủ giữa thung triền
Sáng nay thức dậy một miền cố 
tri
Thi nhân lấy núi rừng hoang dã làm bạn tâm đầu ý hợp cố tri, vì 
thế ngày đêm nhàn nhã tha hồ trao gởi xiết bao nỗi niềm tâm sự, cứ mênh mang 
trút xuống tuôn trào nguồn mạch phong quang sáng tạo và kết tinh thành những tác 
phẩm tâm tình sinh động độc đáo vô lường.
Trước những tác phẩm đồ sộ, dày cộm dài mười mấy ngàn trang đủ 
thể loại biên khảo, truyện ngắn, truyện dài, thi ca như : 
Chèo vỡ sông trăng, Đá trắng chiêm bao, Lửa lạnh non thiêng, Chữ cháy bờ lau, 
Giun dế hư vô và hạt lửa xanh, Bụi trăng và lửa, Miền mây trắng, Tình mẹ mùa báo 
hiếu, Đóa hồng vàng của Phật, Kinh lời vàng, Sương khói Đường Thi ( thơ ) Ngàn 
xưa hương bối, Bức tranh thay đổi thế giới, Người trồng hoa và chàng tu sĩ, Một 
cuộc đời một vì sao, Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt, Chuyện của Thiền, Thanh 
gươm Ba la mật, Hành hương tâm linh, Thắp lửa tâm linh ( truyện ) Học Phật căn 
bản, Người cư sĩ ưu việt, Rèn luyện thơ văn, Phật học tinh yếu, Sử Phật giáo thế 
giới, Sử Phật giáo Ấn Độ và Trung quốc, 38 pháp hạnh phúc, Tiếng hú trên đỉnh cô 
phong ( biên khảo )  mang chở nội dung 
tư tưởng nhân văn và Phật học vô cùng phong phú giá trị, vì thế Viện nghiên cứu 
Phật giáo Nguyên Thủy Dallas-fort Worth ở Texas Hoa Kỳ đã trân trọng tuyên 
dương, cấp phát văn bằng danh dự Tiến sĩ Văn chương cho thi nhân vào năm 2011.  
Trong các tác phẩm đó, ngoài hàng chục tập thơ, nổi bật lên là 
truyện dài 6 tập, dài hơn ba ngàn trang 
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt,
viết về cuộc đời và tư tưởng Đức Phật. So với 
Ánh đạo vàng của Võ Đình Cường hay Đường xưa mây trắng của Nhất Hạnh thì Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt của Minh Đức Triều Tâm Ảnh dài 
nhất, tái hiện lại được toàn bộ sinh hoạt xã hội Ấn Độ từ thời Đức Phật ra đời 
đến xuất gia và thành đạo. Đây là một công trình vĩ
đại, chứa đầy tâm huyết, phải có tấm lòng tha thiết say mê văn học Phật giáo mới 
thực hiện nổi.
Văn chương, nghệ thuật, thi ca phải chăng là tiếng hát của con 
người từ muôn thuở đến muôn nơi trên mặt đất ? Tiếng hát ấy đã bay dậy rung ngân qua cung bậc nhân 
sinh vừa ngậm ngùi trầm thống vừa hùng tráng thênh thang, hòa quyện nhau trong 
cõi lòng tâm can chan chứa giữa mộng đời vĩnh viễn thiên thu :
Mai hết cuộc tôi xin về núi cũ
Giã từ ngày áo đỏ đèn xanh
Chẳng phải tôi nhớ nguồn nhớ 
tổ
Mà bởi tôi chưa dung nổi thị 
thành
 
Tôi đã ra đi bằng bài thơ thứ 
nhất
Thuở đầu đời môi rượu lả đường 
say
Tôi đã ra đi tự khối tình chân 
thật
Yêu trần gian mà không dám cầm  
tay
 
Tôi chẳng biết nơi nao là quán 
trọ
Kiếp vốn tha hương cố quận bao  
giờ ?
Nếu còn thở tôi vẫn còn bày tỏ
Yêu cuộc đời với nguyên vẹn 
tình thơ
Từ tình thơ nguyên vẹn đó, từ những cảm hứng xuất thần nhập diệu, 
thi nhân bước xuống dòng sông tâm thức lung linh tĩnh lặng mà 
chèo vỡ sông trăng trên con thuyền hồn phiêu nhiên qua khắp mọi miền sông 
dài biển rộng, rong chơi thong thả và ung dung nhàn hạ. Đã tự 
bao giờ, người thi sĩ lên đường dấn mình vào cuộc khám phá cánh đồng vô tướng, 
khu rừng huyền mặc tâm linh. Chuyện ấy khác hẳn với chuyện chinh phục vũ 
trụ hay khai khẩn thiên nhiên, bởi vì cảnh giới đó không thể chỉ trỏ cầm nắm gì 
được cả mà chỉ thầm trực nhận, cảm nhận ra thôi, nên ghềnh và thác, suối và đèo 
ở đây là thác ghềnh của tâm cố chấp vào âm thanh, là đèo núi của tâm nô lệ dính 
mắc vào sắc tướng, cần phải vượt qua và vượt  
qua :
Qua sông bèn gọi con đò
Nôn nao lá rụng hai bờ sắc 
không
Qua sông giữa cuộc phiêu bồng
Mới hay trăm sự trăng lồng 
nước xuôi
Khi thấy được mọi sự ở đời như trăng lồng trong bóng nước chảy 
trôi thì bao nhiêu phiền não khổ đau trĩu nặng oằn vai trong cõi người ta bỗng 
chốc tan biến và tất nhiên nhà thơ liền thấy nhẹ nhõm cất bước 
tung
tăng, chẳng còn chi nặng nề trầm trọng âu sầu. Sầu tư chi nữa, khi biết liền lập 
tức cái phù du ảo mộng của muôn sự việc ở đời một cách rốt ráo “vạn pháp giai không, duyên sinh như huyễn” rồi, nhất là cảm nhận 
được sâu xa thăm thẳm cái mặt mũi xưa nay  của chính mình từ lúc chưa sinh ra đời, 
thành thử tự nhiên mỉm cười tỉnh thức vững chãi thảnh thơi :
Hóa ra chỉ thở và cười
Là trăm niềm nỗi một đời xa 
bay
Hóa ra tỉnh thức phút giây
Là ta thấy rõ mặt mày chưa 
sinh
Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Lục Tổ Huệ Năng hỏi Huệ 
Minh : “Không nghĩ thiện,  không nghĩ ác, ngay lúc đó cái gì là bản 
lai diện mục của ông ?” Bất thần nghe hỏi như thế, Huệ 
Minh chợt hoát nhiên liền ngộ ngay đương 
xứ tức chân hiện tiền sờ sờ trước mắt. Thấy là thấy 
liền tức khắc, chẳng đợi mai mốt, tương lai hay vô lượng kiếp sau. Ồ cái mặt mũi thật, cái bản lai diện mục chân dung ấy ở ngay nơi 
chính mình, hãy nhận lấy đi thôi, đừng có vọng tưởng chạy tìm kiếm bên ngoài tận 
đâu đâu nữa. Xưa nay cũng nhiều cuộc lữ vạn lý du mù mịt rồi, thi nhân 
rong ruổi dặm ngàn viễn xứ, cứ trầm tư khắc khoải mải mê kiếm tìm trong vô vọng 
quắt quay… Bây giờ thì dường như đã thấp thoáng thấy hiện mặt mày ban sơ nên 
dừng gót phiêu bạt giang hồ, trở về với cái thân  yêu :
Mải mê giữa chốn chợ chiều
Vai đau tóc lấm đã nhiều gian 
truân
Ta bèn rũ áo phủi chân
Dặm không đủng đỉnh chiếc thân 
nhẹ hều
Nhẹ hều nhẹ nhõm nhẹ thênh trên con đường mây trắng phong quang, 
thi nhân vẫn nhẹ nhàng như sương như khói thong dong giữa tuế nguyệt phiêu bồng. 
Lòng vô vi vô trú, ngao du suốt bốn mùa mưa nắng, lãng 
đãng qua lại chốn phù sinh. Đôi khi như con chim rừng hứng chí hót chơi dăm ba 
điệu vô thanh lảnh lót vu  vơ :
Cửa sài hai cánh mở
Mây trắng bước vào ra
Phù sinh chừ rỗi việc
Rong chơi suốt bốn mùa
 
Con chim qua rừng tía
Buồn nghển cổ hót chơi
Ta có mặt giữa đời
Đổ thơ lên suối chảy
 
Cõi này cao thăm thẳm
Gậy này bước khơi vơi
Năm tháng ta rong chơi
Chỗ chẳng trời chẳng đất
Cuộc chơi ở đây chính là cuộc lữ thi ca hoằng viễn 
thênh thang biển rộng sông dài giữa vũ trụ mênh mông. 
Không có một thi nhân nào từ vạn cổ đến nay mà không lấy nhật nguyệt thiên địa, 
trăng nước gió mây làm chỗ giao du qua lại, bởi vì mặt trời mặt trăng, mặt đất 
trần gian ngút ngàn sông biển mây gió bao la kia là ẩn ngữ thi ca, hàm dung tất 
cả tinh túy mật ý mà người thi sĩ muốn bày tỏ với cõi tạm trần  
ai :
Như mây lãng đãng sông dài
Và như hoa nắng trên vai ửng 
màu
Và như tóc trắng trên đầu
Hạo nhiên gót lữ qua cầu nhân 
sinh
 
Chút lãng mạn của mây trời
Giữa hư không vẽ một đời phiêu 
du
Chút lãng mạn của mùa  
thu
Giữa chiêm bao vẽ sương mù 
lòng ta
 
Đầu năm nhặt cỏ vườn trăng
Câu thơ thiền đạo mầm măng nhú 
chồi
Xanh non màu mắt xuân vui
Bút tâm vừa chạm đất trời nhẹ 
rung
 
Xanh xanh chiếc lá nhân sinh
Hôm qua giọt nước hữu tình đến 
chơi
Vì thương sa 
mạc lòng đời
Hóa văn tình lọc chữ đời nguồn 
trong
Vì thương yêu vô điều kiện, không mục đích nên thi nhân vẫn trung 
thành với bước đi cô liêu độc hành ca qua khắp nẻo tồn lưu, nhìn ngắm mọi sự đời 
như nước chảy mây trôi, không dính mắc chẳng ràng buộc 
vào đâu hết cả. Buồn vui, sướng khổ… ừ thì biết là sướng khổ, buồn vui… thế thôi. Đôi khi cũng chạnh lòng, trằn trọc thao thức khi nghe tiếng chuông 
chùa Hàn San của Trương Kế, từ mấy nghìn năm trước vọng về văng vẳng ngân nga. 
Tuy sống với núi với đá mà hồn chưa thành đá thành núi, vẫn còn lẩn thẩn với 
dòng sông với trăng nước cánh buồm xa vì trái tim vẫn 
còn đập nhịp tình đời. Tình đời lý đạo giao thoa ở đây trong một niềm tri kỷ tri 
âm thâm thiết không nói nên  lời :
Sống với núi mà hồn chưa hóa 
núi
Nên đôi khi lẩn thẩn một dòng 
sông
Lẩn thẩn cánh chim màu hoàng 
hôn ướt sẫm
Cùng cánh bèo xao xuyến nỗi 
sầu đông
 
Tiếng ai hát mà bờ xa sóng vỗ
Đẩy con đò trôi hút cõi cô 
liêu
Rừng không ngủ và ngàn sao 
không ngủ
Tưởng lắng nghe chuông vọng 
bến Phong Kiều
 
Sống như đá mà tình chưa hóa 
đá
Lẩn thẩn trăng và lẩn thẩn 
cánh buồm khơi
Đốm lửa chài nhấp nhô miền hư 
ảo
Tưởng cùng ta nhấp nháy trái 
tim người
 
Nên nỗi buồn cũng chàm rêu 
thành quách
Dòng sông đêm con nước chảy mơ 
hồ
Dăm tri kỷ tơ đàn xưa buốt 
lạnh
Thoảng mộng trường dăm bảy hạt 
sương khô
Giữa nhân sinh trường mộng, mỗi người trong chúng ta có lẽ ít 
nhiều đều chạm mặt với nỗi buồn cô đơn khốc liệt, riêng với những tâm hồn thi 
nhân thượng đẳng hoằng đại, họ sẵn sàng đón nhận sự cô đơn như đón nhận một tri 
âm, tâm đắc ăn nằm với cô đơn một cách thân mật, đậm đà, họ thích tự do tự tại 
bước thênh thang những phương trời cao rộng để sáng tác sáng tạo. Chính sự cô 
đơn là nguồn cảm hứng sáng tạo vô biên. Sứ mệnh của kẻ cô đơn là viết và viết 
lên những tác phẩm siêu đẳng, viết văn siêu đẳng, làm thơ siêu đẳng, vẽ tranh 
siêu đẳng vì cuộc đời siêu đẳng thượng thặng, tuyệt vời như cảnh giới huyền ảo 
sương khói trăng 
 sao :
Cô liêu đứng giữa 
sa mù
Nửa lòng lạnh trắng nửa 
thu nhạt mờ
Cô liêu đá cô liêu thơ
Và cô liêu nữa chơ 
vơ bốn bề
Bốn bề tám hướng mười phương đều phả một màu cô đơn trầm hậu. Nỗi 
cô đơn, niềm cô độc không phải là xa lánh cuộc đời mà trái lại, để cho thi nhân 
có dịp trầm tư, cúi xuống lắng nghe giữa lòng đời một cách thành tâm sâu sắc 
hơn. Cô đơn và sáng tạo thường đi đôi sánh bước với nhau để cùng khơi mở suối 
nguồn uyên nguyên trong tâm thức, nhà thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh biết rất rõ 
điều đó nên đã chọn cho mình một thái độ ẩn dật giữa núi  non :
Con chim ẩn sĩ qua vườn
Làm rơi chiếc bóng bên sườn 
nước trong
Ai kia đứng lặng giữa dòng
Mà nghe nửa có nửa không bàng 
hoàng
 
Núi cao chẳng đứng hai mình
Không trung chẳng thể trăm 
tình ở  
chung
Bao năm khói bụi đi cùng
Cô đơn chiếc bóng hành 
tung khó tìm
Cô đơn rờn lạnh quạnh vắng hoang liêu, người thi sĩ thì thầm 
khuya sớm chuyện chi mà trăng tỏ rạng ngời nỗi lòng thiết tha như thế, để cho 
thỉnh thoảng xuống núi chơi rong, có bài thơ sương khói làm quà tặng cho dâu bể 
vô thường, lòng bồi hồi gió cát và mỉm nụ cười với tứ xứ mười phương hoa cỏ khơi  
vơi :
Thơ về phố chợ rong chơi
Đề câu quán khách dặm lời khói 
sương
Có khi chữ lấm tro hường
Có khi bụi trắng cúng dường bể 
dâu
 
Dẫu như mây hiện giữa trời
Chút tình trăng nước tạc lời 
làm vui
Mười phương gió cát bồi hồi
Mười phương hoa cỏ nụ cười 
mênh mông
Có lẽ đó là nụ cười như Ma Ha Ca Diếp trong tích niêm hoa vi tiếu 
thuở nào trên tuyệt đỉnh Linh Sơn rờn mây trắng hay nụ cười vô sự của thiền sư 
xuống núi hoặc nụ cười vô vi của thi sĩ phiêu bồng những phương trời thi ca bát 
ngát mông  mênh :
Đạo tình nửa nhớ nửa quên
Chừ ta ở lại giữa miền bụi bay
Thơ còn mây trắng phương tây
Thì lòng thi sĩ tháng ngày còn 
xanh
Trên dặm trường sương gió ra đi, thi nhân ngây ngất sững sờ giữa 
quên và nhớ cũng như giữa có và không, giữa mộng và thực, giữa sống và chết, 
giữa mê và ngộ… Hai trạng thái chỉ cách nhau kẽ tóc đường tơ nhưng thực ra chẳng 
khác nhau gì cả mà hòa nhập tương dung tương tức, bất nhị tự thuở nào  
rồi :
Đạo đời một mối khôn phân
Tình thiên thu nọ mà gần mà xa
Dòng lên dòng xuống cũng là
Đầu nguồn cuối biển sương 
pha
mấy màu
Mấy màu sương pha hỡi dòng đời suối đạo ? 
Thôi chớ bận tâm, đừng có mơ màng mộng mị chi thêm nữa mà hãy bất động rỗng rang 
với lòng như thị như nhiên. Tuyệt diệu làm sao ! Bước đi không chỗ trú của đạo và thơ giữa ta bà huyễn 
mộng phù  du :
Ngàn xưa Đạo xuống thảo  
lư
Trăng vàng ghé đọc tương tư 
mấy mùa
Ngàn sau Thơ xuống hiên chùa
Chỉ nghe lá rụng gió lùa lạnh 
hiu
Dìu dặt thần hồn giữa trăm miền quyến rũ 
đầy âm thanh và màu sắc mà nhà thơ chẳng mắc dính buộc ràng trói cột vào bất cứ 
gì vì đã giã từ, buông xả sạch trơn hết rồi. Đến nỗi bỏ luôn phồn hoa đô hội, 
trút hết mộng mị thị thành để đơn thân độc mã, một mình một bóng lặng lẽ âm thầm 
lên tận chốn non cao giữa rừng sâu rú thẳm, cắt cỏ lợp tranh trồng hoa vàng gầy 
trúc biếc, dựng lên cảnh thần tiên Huyền Không Sơn Thượng. Một cảnh giới thuần 
túy thiên nhiên, phưỡng phất ngợp đầy chất thiền vị thi ca giữa trời thơ đất 
mộng, bồng tênh lênh láng lãng đãng sương mù và mây trắng chập chùng bay lượn 
suốt sớm trưa chiều tối phiêu diêu. Tiêu dao tiêu sái, nhàn nhã thưởng ngoạn 
trăng ngàn bàng bạc ngân nga hòa quyện suốt đêm  
ngày :
Gánh mộng lên non thả gió bay
Đem thơ vào núi gởi cho mây
Thân ta sương khói phiêu bồng 
cõi
Biết dính vào đâu giữa chốn 
này ?  
Giữa chốn trần gian đầy hỗn độn, lộn nhào đảo hoán mọi giá trị 
tinh thần, nhất là giá trị đạo đức đều sụp đổ tan hoang, kể cả tôn giáo cũng đeo 
mặt nạ giả dối vì những thủ đoạn của thế lực vô minh xen vào âm mưu phá hoại một 
cách tinh vi quỷ quyệt. Biết rõ tận tường chuyện đời điên đảo xảo trá mưu mô đó, 
cho nên thi nhân vất bỏ ngoài tai những chuyện thị phi, 
xem thường mọi sự như được và mất, khen và chê, sướng và khổ, danh thơm và tiếng 
xấu… Thấy mọi hiện tượng, màu sắc, âm thanh, danh lợi đều huyễn hoặc vô thường 
như sương bóng phù du, nên lặng lẽ từ tạ giã biệt bỏ đi, có chi đâu mà  vướng bận dính mắc, chẳng có gì phải đuổi 
bắt hy vọng mong cầu :
Tạ từ xuôi ngược bể dâu
Tạ từ danh tướng sắc màu thế 
gian
Non sâu đã lặng tiếng đàn
Đêm đêm nguyệt trúc gió ngàn 
vô thanh
 
Hai bờ trang giấy vô hư
Chữ bơi ở giữa tưởng tư cuộn 
dòng
Ta bèn giọt mục sang sông
Đỡ phiền bát nhã đỡ công sắm 
đò
Bỏ lên non cao, tìm vào rừng sâu rú thẳm với phong 
độ  khinh an, thoát vượt mọi tham si, thi 
nhân nhẹ nhàng lắng nghe cung đàn vô thanh vi vu vi vút vọng về. Để rồi, mỗi sớm 
tinh sương óng ả hay những buổi chiều tà hoang lương cô tịch, bình yên thả bước 
dạo vòng quanh qua nhịp cầu Lãm Thương dịu ngát hương sen rồi rong rêu qua hồ 
Thủy Nguyệt xanh ngần bóng núi trầm hùng, nhẹ mỉm cười với mấy vần thơ đung đưa 
thư pháp bên hiên Am Mây Tía hay thỉnh thoảng, đôi khi cùng tâm sự với hoa vàng 
trúc biếc lung linh huyền ảo dưới ánh trăng ngà long lanh lấp  lánh :
Qua vườn thăm thảm cỏ xanh
Thăm câu lục bát thăm cành 
liễu trơ
Có khi trăng động mặt hồ
Bóng hồn lẫn với bóng thơ bồng 
bềnh
 
Bốn mùa xanh biếc trúc  
ơi !
Ruột không tiết thẳng đứng 
trời hạo nhiên
Quanh năm nhả khí cao hiền
Còn tung xác lá án thiền tặng ta
 
Ta yêu trời đất sương mờ
Và yêu mây trắng 
ngu ngơ non tùng
Bao năm gót lữ đã từng
Dặm người dặm bụi xin đừng hóa 
dâu
Sâu thẳm tình yêu lồng lộng không tên, bềnh bồng thanh khí, thở 
cùng hồn đất hồn trời, hồn sông núi thiên nhiên, Huyền Không Sơn Thượng gợi nhớ 
đến cảnh giới tuyệt vời Lô Sơn mà Tuệ Sỹ giới thiệu trong 
Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng : “Lô Sơn hùng vĩ phiêu bồng nhưng u ẩn. 
Lòng núi giấu kín những tâm sự nghìn năm không nói, lòng núi ủ kín những cuộc 
đời trầm mặc, những thân thể khô gầy như hạc như trúc, những tâm hồn nguội lạnh 
như tro tàn mùa đông. Núi âm thầm cho gió ngàn gào thét cho mây trời vần vũ và những dòng 
thác từ trên tuyệt đỉnh cao mù đổ ào xuống. Lô Sơn đồng 
vọng một cõi thi ca bát ngát. Cõi thi ca trùng trùng điệp điệp những ẩn ngữ kỳ diệu.”* 
Ẩn ngữ ấy được thi nhân nhận biết là hơi thở trong vô biên và là nụ cười trong 
thực tại bây  giờ :
Chừ vô biên chỉ còn là hơi thở
Và nụ cười bất diệt khắp quanh 
đây
Đời đạo sĩ con còng già bỏ tổ
Hóa thân làm lau cỏ ngát đồi 
tây
Hóa thân làm cỏ lau xào xạc ven sông, làm hồn hoa cỏ may lay động 
bóng chiều tà óng ả, làm giọt sương mai óng ánh, làm đá tảng triền đồi hát vang 
những lời vu vơ thơ nhạc ban sơ phơi  
phới :
Có khi tâm đá thốt lời
Có khi hồn cỏ dạo chơi thung 
triền
Cũng là thơ cũng là thiền
Sương treo công 
án một miền lá xanh
Xanh ngát ngàn thông vi vu vi vút giữa 
truông đồi mây gió hoang vu, không còn phân biệt đâu là ngày đâu là đêm, đâu là 
thực đâu là mộng, đâu là đến đâu là đi… Chỉ biết rằng chút thân bèo bọt này đã 
trải qua vô lượng kiếp trùng trùng sinh diệt giữa biển trầm luân nghiệp báo lưu 
linh  
rồi :
Hôm qua mộng thấy tụng kinh
Tỉnh ra mới biết chính mình là 
trăng
Bao nhiêu cát của sông Hằng
Là bấy nhiêu kiếp đã từng tử 
sinh
Thấy sinh tử như những bọt sóng nhấp nhô nổi trên mặt 
biển hiện tượng có sinh có diệt đồng thời cũng nhận biết bản thể của sóng là 
nước, vốn không sinh không diệt thì lòng trạm nhiên rỗng lặng, chẳng còn sợ hãi 
gì nữa. Mưa nắng phiêu nhiên, tuế nguyệt phiêu bồng 
mở ra bát ngát cõi thi ca lồng lộng để hồn thơ phiêu diêu sương khói vô vi, quên ta quên người, quên thân quên thế, quên mộng quên 
thực, quên hết xưa sau… Chỉ còn lại hương vị cô liêu dìu dặt tình yêu thương 
không đối tượng mà chứa chan bao cảm mộ giao hòa với thực tại bây giờ và ở  
đây :
Bài thơ viết giữa khói mây
Ngẩn ngơ sương trắng 
lay bay rừng chiều
Chim trời rớt hạt cô liêu
Mới hay câu chữ nghiêng xiêu 
bóng mình
 
Qua cầu bỏ bóng quên mình
Bóng bao nhiêu ảnh mê tình bấy 
nhiêu
Cỏ xanh liễu biếc yêu kiều
Thế thân sương khói phiêu diêu 
mấy bờ
Mấy bờ lau lách xanh reo cười nói điều chi như thế, để trên ngõ 
về cố quận, nếu ngày xưa nhà thơ Phạm Thiên Thư có lần mơ ước một ngày nào đó sẽ 
lên núi rừng cao thẳm lập am mây bên động hoa vàng để tự do ca hát say sưa cho 
thoải mái, thỏa nguyện, thỏa chí bình  
sinh :
Mai sau trời đất thái bình
Về lưng núi phượng một mình 
túy ca
Gây giàn thiên lý vàng hoa
Lên non cắt cỏ lợp nhà tụ 
mây**
Thì hôm nay, nhà thơ Triều Tâm Ảnh đã thực hiện được 
ước mơ đó một cách ngoạn mục như ý rồi. Ơi 
chao ! Suốt bình sinh một đời người, thi sĩ buông xuống xả ly hết mọi sự 
để thể nghiệm niềm tự do vô ngại ngay nơi bản thân và đã cảm ngộ vô ngần niềm tự 
do đó giữa nhật nguyệt thiên địa, mưa nắng gió trăng, cỏ hoa mây nước, sương 
ngàn núi biếc quyện hòa trên cung bậc Nhất  
Như :
Lối nhỏ qua cầu bóng thảo  
lư
Vườn thơ vườn cỏ dáng khiêm từ
Mấy mùa lặng lẽ màu thanh thủy
Bao độ u nhàn nghĩa cổ  
thư
Trăng ghé hồ trăng không lại 
có
Gió xao cành gió thiệt rồi hư
Hốt nhiên tâm ý đàm hương 
quyện
Soi tỏ trời chiều một chữ Như
Chữ Như của thi sĩ Triều Tâm Ảnh khiến cho chúng ta sực nhớ lại 
chữ Như của thiền sư Phước  
Hậu :
Kinh điển lưu truyền tám vạn 
tư
Học hành không thiếu cũng 
không dư
Đến nay nghĩ lại đà quên hết
Chỉ giữ trong lòng một chữ Như
Như Lai, Như Như hay Chân Như, Phật Tánh đều giống nhau, chỉ cái 
bản thể Diệu Tâm thâm thúy của vũ trụ nhân sinh vốn có sẵn, luôn luôn hiện hữu 
ngay trước mắt mình đây thôi như trong kinh Đại Bát Niết Bàn đã 
nói : “Tất cả chúng sinh đều có 
Phật Tánh, Phật Tánh ấy là Thường Lạc Ngã Tịnh.” Khi mình thấy muôn loài vạn 
vật đều sống trong Phật Tánh thì tức là thấy tánh và tướng của sanh tử là Niết 
bàn đều an lạc, vô ngại tự tại tự do.  
Có một hành giả hỏi thiền sư Cảm Thành : “Thế nào là Phật ?” Sư đáp : 
“Khắp tất cả chỗ.” Lại hỏi tiếp : “Thế nào là tâm Phật ?” Lại
đáp : “Chẳng từng 
che giấu.” Như thế, chẳng từng che giấu và
khắp tất cả chỗ
là sự bình đẳng tuyệt đối của Phật Tánh.  
Đây là sự bình đẳng rốt ráo, bất nhị của Niết bàn và sanh tử, của Phật Thích Ca 
và chúng sinh.
Tánh Phật bất khả tư nghì cũng giống như Tánh Không mông mênh 
chẳng ngằn mé kia, cho nên không có bất cứ một chúng sinh nào có thể sống 
ngoài Tánh Không được cả. Tánh Không vô ngại rỗng rang vốn tự do tự tại, giải 
thoát triệt để ngay từng giây phút
 như thị như nhiên, như vầy như thế, như 
thơ như nhạc, như có như không, như mộng như huyễn, như rứa như ri ngay đang là 
đó tức thì :
Ta và mặt nhật cùng đi
Chẻ câu thơ thấy man di kiếp 
người
Trăm năm một hơi thở thôi
Ta cùng chữ thức giữa trời tự 
do
 
Tay buông tay bắt phí công
Thế tình tan tụ có không lẽ 
thường
Ai người còn bỏ còn vương
Ngắm nhìn như thị bụi hường ở 
đâu
Bụi hồng khói đỏ, cỏ vàng lá xanh hay niết bàn sinh 
tử, thiên đường địa ngục…đều tùy duyên biểu hiện chập chùng như hoa đốm giữa hư 
không mà thôi. Vậy thì, chúng ta hãy sống trọn vẹn, 
hít thở bầu tự tánh Chân Không, Tánh Không rỗng lặng, tuyệt nhiên chẳng nên hoài 
công phí sức tiêu diệt hoa đốm làm chi nữa :
Sợi tóc chẻ vô công
Chẳng thể thấy Chân Không
Tìm đốm hoa mà diệt
Có sạch được trần  
hồng ?
Hỏi tức là trả lời rồi. 
Vì thế, cuộc đời người thi sĩ xuất chúng kia tự nhiên thanh thoát, sáng ngời như 
một bài thơ bất tuyệt giữa đỉnh cao và hố thẳm tâm linh đã về đã  
tới :
Bài kinh đi suốt cuộc đời
Đêm nghe gió nổi tiếng lời 
sạch không
Chừ đây một cõi phiêu bồng
Chỉ còn ta đứng mênh mông bóng 
mình
Muôn xưa bóng bọt đăng trình
Muôn sau bóng bọt tấp ghềnh 
chiêm bao
Chiêm bao huyễn mộng cũng là thực tại, một thực tại 
hiện tiền ngay trước mắt. Đức Phật đã chỉ rõ cho 
chúng ta thấy cái pháp thực tại ấy trong kinh Pháp Bảo : “Pháp đã được 
khai thị bởi đức Thế Tôn là thực tại hiện tiền, phi thời gian. Hãy quay đầu là thấy ngay trên đương xứ mà mỗi người trí tuệ đều có 
thể tự mình chứng nghiệm.” Hay như Lục Tổ Huệ Năng 
: “Trong sát na không có tướng sanh, không có 
tướng diệt mà cũng chẳng có sự sanh diệt nào phải diệt đi cả. Đó là cái thực tại 
hiện tiền tuyệt đối, không hạn cuộc bởi một ranh giới nào, nên lúc nào cũng tự 
tại an vui.”  
Như vậy, nói theo sư Viên Minh, người bạn thâm 
tình  chí cốt, huynh đệ với Triều Tâm Ảnh : 
“Pháp của Phật phải hội đủ những tánh chất : Thực tại hiện tiền, hồi đầu mà 
thấy, thấy ngay lập tức không qua thời gian, phải ứng xử ngay trên thực tại thì 
mỗi người sẽ tự thấy ngay…Thiền tông nói rằng : “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh 
thành Phật.” Trực chỉ không thể ngày mai, ngày kia phải thế 
không ? Thẳng vào tâm mình cũng có nghĩa là trở về ngay nơi thực tại hiện 
tiền này, đừng đợi thời gian, hãy trở lại mà thấy cái ngay tại đây và bây giờ. 
Đó cũng chính là kiến tánh… Khi đang sân, ngay lúc đó chỉ có 
cái sân là thực, chúng ta cần trọn vẹn thấy rõ cái sân đó với toàn bộ tính chất 
của nó. Ấy mới là kiến tánh, mới là cước căn điểm địa. Nó chính là định 
là tuệ, chẳng có cái định, tuệ nào tối thượng hơn.”***  
Có lẽ thường xuyên sống trong thực tại mới mẻ đang là như thị đó, 
cho nên thi nhân vẫn im lặng sáng tỏ, buông bỏ xuống hết trăm công nghìn việc, 
vắng vẻ mọi nỗi ưu  phiền :
Trần gian trăm việc tạm yên
Thơ đề góc núi đầy hiên nắng 
vàng
Gió trăng thế sự không bàn
Giấc thiền lặng lẽ nhẹ nhàng 
tình không
Rỗng rang nhàn nhã, bao nhiêu nhiêu khê tế toái chuyện thế gian 
chẳng còn bận tâm luận bàn chi thêm nữa cho mệt, chỉ còn biết hứng thú làm thơ, 
thường xuyên viết thư pháp, đàm đạo uống trà cùng hư vô hố thẳm và lắng nghe 
trăng khuya đọc thơ chơi giữa ngàn sao chiếu diệu  
vời :
Trăng khuya tìm đọc thơ rơi
Núi rừng đã ngủ đất trời còn 
ta
Mời hư vô cạn 
chung trà
Giọt sương thinh lặng la đà 
hiên văn
 
Trăng ngồi góc núi làm thơ
Mây qua đỉnh biếc viết tờ kinh 
không
Thương ai tất tả dặm hồng
Lên đây lượm chút phiêu bồng 
về chơi
 
Còn hoa thì bướm tìm về
Còn kinh còn chữ tỉnh mê còn 
bàn
Còn lý sự còn 
lan man
Ra sông úp chiếc đò ngang khỏe 
liền
Tuyệt diệu là khỏe liền như thế đó mà có mấy ai thực hiện được gì 
đâu ? Thôi thì, một khi thi nhân lãnh hội được điều ấy 
rồi thì cứ việc thong dong thoải mái đến đi, tùy thuận tùy duyên mà chuyển hóa 
những tâm hồn đồng điệu bằng phương tiện nghệ thuật thi ca thiền học.
Thiền và thơ như đôi cánh phụng hoàng tung bay chín tầng trời cao ngất 
như  thi nhân nhận định 
 : “Thơ bay vi vút trong không 
gian thẩm mỹ ước lệ, Thiền bay thênh thang trong cõi tịch mặc, trong sáng và vô 
duy. Thơ là tinh hoa của ngôn ngữ, làm cho con chữ lấp lánh nhiều sắc màu, ý 
tưởng, lung linh đa chiều tư duy và cảm xúc, Thiền là tinh hoa của minh triết 
Đông phương, là đóa trăng soi giữa miền u tĩnh, đánh thức vô minh, vọng lầm để 
tao ngộ với quê hương sơ thủy. Thơ là sự suy tưởng của triết lý thất bại, là 
giấc mơ tại thế, là cánh chim ước vọng bay vào giấc mơ riêng tư, cô đơn nhưng 
lại xa rộng khôn cùng, nó còn muốn nhảy vào cả hố thẳm vô thức câm nín nữa, 
Thiền là miền đất bên kia, thuộc lãnh địa của tâm năng trực giác, là chỗ mà lý 
trí tuyệt lộ, là ngôn ngữ vô ngôn của cố quận thuở ý tưởng và khái niệm chưa 
sinh ra đời… Cả thơ và thiền đều như trăng, chẳng soi chiếu cho riêng ai mà làm 
sáng cho tất cả. Trăng còn để dành cho khách lãng tử và bạn tri âm, đôi khi nó 
đối ẩm với chính mình, cỏ hoa và trời đất nữa.”
Thật vậy, trăng gió nước mây, hoa vàng trúc biếc, giun dế chim 
muông… là ẩn ngữ của thiền và thơ như Thiền Lão đại sư có lần tuyên  
bố :
Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh 
khác
Trăng trong mây trắng hiện 
toàn chân
Chân Tâm, chân lý như thị như nhiên, hiện tiền ngay trong từng sự 
vật bé nhỏ, ngay trong mỗi lá cỏ đóa hoa dại ven đường như thi sĩ Quách Thoại có 
lần đã sực thấy thẳm  
sâu :
Đứng yên bên hàng giậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Lặng nhìn em kinh ngạc
Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
Ta sụp lạy cúi đầu
Còn nhà thơ Triều Tâm Ảnh thì thấy nghe vi diệu tuyệt vời ngay 
trong các loài động vật nhỏ bé như giun dế, chim chóc líu lo ríu rít huyền  
hòa :
Chim và giun dế du ca
Hát lên nào hỏi quê nhà là đâu
Lang thang trăm quán nghìn cầu
Trái tim nốt nhạc bên nhau chẳng rời
Dĩ nhiên đó là những ẩn ngữ của thi ca và thiền. 
Tiếng thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh là tiếng lòng rung động khôn dò của một đạo 
nhân hay một thi sĩ  đã dấn mình đi sâu vào hố thẳm và đỉnh 
cao của cuộc đời, lang thang trong thế giới phiêu lãng của ngôn từ, đốt cháy lên 
từng con chữ, từng khái niệm hữu vi vô vi làm bừng sáng tư tưởng thượng thừa 
vượt thoát nhị nguyên, huyễn ảo chiêm bao :
Dấu chân trên cỏ hôm nào
Vẫn còn sương ướt lời chào cố 
tri
Kẻ hữu vi 
người vô vi
Mênh mang mây nước cuộc đi 
cuộc về
 
Có thiền ẩn tận hang sâu
Có thiền vào chợ dăm câu ba 
vần
Hỡi ai phiêu lãng đường trần
Quay nhìn chiếc bóng chợt gần 
chợt xa
 
Câu thơ đốt lửa ra đi
Đất trời khát vọng trí tri 
cuộc bồng
Phiêu nhiên cháy một đốm hồng
Soi vài vệt tối chút không tìm 
về
 
Tay cầm một đóa đông phương
Niềm vui hoa nở con đường hữu 
duyên
Nước mây chan chứa đạo thiền
Yêu thương khổ đế não phiền 
trăng soi
Trần ai còn khổ đế, ta bà còn khổ lụy là thi nhân vẫn 
còn tiếp tục làm thơ và hành thiền. Tiếng thơ ấy 
đang cưu mang một tính mệnh quê hương Việt Nam lớn lao như lời nhận xét tinh tế 
của thi sĩ Phạm Công Thiện :  “Đọc đi đọc lại mấy lần, mấy chục bài thơ của Triều Tâm 
Ảnh, tôi có linh cảm rằng thi sĩ đang cưu mang một Tính Mệnh lớn lao mà có ít 
thi sĩ Việt Nam nào hiện nay có thể đủ trầm lặng đạo lực cưu mang nổi. Không 
phải vì những tên tuổi bi tráng như Nietzsche hay Rimbaud mà tác giả yêu thích 
đã khiến tôi nhận xét như trên mà vì chính những gì loáng thoáng đàng sau những 
dòng thơ kỳ diệu của thi sĩ.
Thi nhân ở đây 
đồng thời cũng là một đạo nhân. 
Thi nhân đang đứng giữa trung tâm điểm cơn bão tố địa cầu, đứng giữa Triêu dương 
của Đông phương và Tịch dương của Tây phương, đứng giữa Tây nhập và Đông khởi 
của Hoa Nghiêm Kinh…  Như những đám mây 
trôi nổi ở vùng mặt trời lặn, tôi xin gởi đôi dòng linh cảm này về thi sĩ và tạ 
ơn được đọc những bài thơ sâu sắc tuyệt đẹp, ít thấy trong thi ca Việt Nam
hiện đại.”
Cõi thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh hay cõi thơ thanh thoát an nhiên 
đó đã khơi mở biết bao cảm hứng cho những nghệ sĩ thi nhân, nhất là cảnh giới kỳ 
tuyệt Huyền Không Sơn Thượng kia, như có một thần lực vô hình chiêu cảm những 
bước chân du tử lãng tử, những hành nhân thi sĩ đi về hân hoan nôn nao hồn reo 
vui rộn  rã :
Huyền Không Sơn Thượng rất xa
Đã qua làng xóm còn qua núi 
đồi
Ở đây vườn cảnh xanh tươi
Lan rừng nở rộ chim trời hót vang
 
Đã trở về mái nhà xưa
Thì trăng thì gió bốn mùa 
thênh thang
Lắng nghe chim tấu khúc ngàn
Lắng nghe hơi thở dịu dàng cỏ  
thơm
 
Đợi làn mây tía qua hiên
Chung trà hương sói kết duyên 
bạn bầu
Khói sương ý hợp tâm đầu
Lá hoa cười nói chữ câu xóa 
liền
Huyền Không Sơn Thượng ơi ! Lang thang sĩ này cũng từng về nơi 
chốn ấy nhiều lần rồi, thường lặng lẽ một mình lên nằm mắc võng đong đưa giữa 
hai đầu nhật nguyệt một vài hôm để lắng nghe tiếng thơ tịch mịch vang dội rền 
mênh mang khắp đất trời. Có bận đi với thi sĩ Trần Đới, Phạm Thư Cưu, Hải 
Tuệ, Kiều Trung Phương, vài lần cùng  với Nguyễn Văn Nho chọn một đêm rằm lên 
ngắm trăng Huyền Không Sơn Thượng. Sương khuya lãng đãng hòa quyện trăng ngàn 
xanh biếc lùa vào thảo am ngan ngát hương trầm, chỉ còn nghe gió thiên thu đồng 
vọng trong giọng ngâm thơ của Nguyễn Văn Nho truyền cảm làm xao động mấy cành 
trúc la đà phất phơ quanh bờ suối hoa vàng và tôi cũng trầm hùng đọc một bài thơ 
mới vừa cảm tác giữa cùng cốc thâm sơn :
Đường lên đó thoảng lời chim lảnh lót
Dọc ven sông hoa nắng trổ thơm lồng
Dòng Hương khuất sau cánh rừng cây lá
Qua dốc đồi thoáng hiện bóng Huyền Không
 
Không mà có khi lòng buông bỏ hết
Thì thong dong là cái được của Huyền
Kinh lời vàng 
vọng  ngàn xưa hương bối
Chợt bừng ra vi
diệu nghĩa uyên nguyên
 
Miền sương trắng
lặng hồn sâu trầm tịch
Tình non thiêng hiển lộ cái vĩnh hằng
Cầm rất khẽ làn hương khuya mới mẻ
Nghe ngoài kia ai  chèo vỡ sông trăng
 
Về ngõ hạnh hành hương tâm linh nọ
Gió muôn trùng không dấu vết thơ bay
Ồ đá trắng chiêm bao 
thành thực tại
Cõi thi ca bát ngát giữa phương này
 
Tâm Nhiên
 
* Tuệ Sỹ. Tô Đông Pha
những phương trời viễn mộng. Ca Dao xuất bản, Sài Gòn 1973
** Phạm Thiên Thư. Động hoa vàng. Tiếng Thơ xuất bản, Sài Gòn 
1971
*** Viên Minh. Thực tại hiện tiền. Tôn 
Giáo xuất bản 2005
Thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh 
( chữ
nghiêng ) trích trong các tác phẩm :
Chèo vỡ sông 
trăng. 
Hội Văn Học Nghệ Thuật Thừa Thiên Huế xuất bản 1993  
Chữ cháy bờ 
lau. 
Thuận Hóa xuất
 bản
 2004
Giun dế hư vô 
và hạt lửa xanh. Văn Học xuất  
bản  2008
Bụi trăng và 
lửa. Văn 
Học xuất
 bản
 2011