Phật Thích Ca , 2500 năm xưa,
đã nguyện ngồi thiền dưới cội Bồ Đề cho đến khi chứng đạt Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác hay thành Phật. Thiền định gồm có nhiều phương
pháp nhằm phát triển chánh niệm, tập trung, thanh tịnh, tỉnh giác và
tột đỉnh đạt giác ngộ giải thoát. Những kỹ thuật hành thiền cơ bản
được ghi chép trong nhiều kinh sách, cũng như được truyền thừa và đa
dạng hóa qua hàng ngàn năm.
Trên phương diện sức khỏe, thiền định
được xem như một nghệ thuật thư giãn, trong cố gắng giảm thiểu sự
căng thẳng bức xúc, đau đớn, tạo cảm giác an lạc, giúp quân bình thân
tâm và trị liệu các chứng bệnh.
Chỉ riêng trong Phật giáo cũng đã có
hơn 8 vạn 4 ngàn pháp môn tu tập và số lượng phương pháp hành thiền
cùng những chứng bệnh nan y cứ tiếp tục leo thang theo đà phát triển
của khoa học kỹ thuật.
Trong 5 thập niên qua khoa học và y học
càng ngày càng chú ý đến thiền, với nhiều nghiên cứu, để được xem như
là phương pháp trị liệu bổ sung-thay thế đối với nhiều bệnh trạng
khác nhau như trầm cảm, căng thẳng, lo sợ, mất trí nhớ, đau nhức, mệt
mỏi, mất ngủ, cảm cúm, ung thư, AIDS (Sida), tê khớp, tim mạch, viêm
gan, tiểu đường, suyễn, nghiện ngập, tăng tiến tuổi thọ, vân vân.
Ngay chính những tư tưởng tiêu cực, căng thẳng, xúc động và ưu phiền
trong cuộc sống làm cho bệnh trạng càng thêm trầm trọng và nguy
hiểm.Thiền định chú trọng và có tác dụng làm cho thân tâm được lắng
dịu thanh tịnh, từ đó những trăn trở khổ đau do bệnh tật gây nên cũng
được thiên giảm hay tiêu trừ.
Đức Phật cũng là bậc y sư khi thuyết
về câu chuyện người trúng mũi tên độc, không lo nhổ mũi tên, hút máu
độc và dùng thuốc rịt vết thương cho lành, mà cứ bâng khuâng muốn tìm
hiểu ai đã bắn mình và vì sao bị bắn, v.v.. thì e đã quá trể, không
còn cứu được sinh mạng. Thật ra trong câu chuyện ẩn dụ này, Đức Phật
muốn khuyên nhủ một tỳ kheo nên chuyên chú tu hành hơn là mất thì giờ
để tâm vào những tìm hiểu khoa học viễn vông như thế giới này là hữu
biên hay vô biên, nguồn gốc phát sinh loài người, v.v.
Trong thời buổi văn minh tiến bộ này,
không phải tất cả mọi sự kiện đều được khoa học giải thích rõ ràng,
hoặc những gì được khoa học chứng minh đều là đúng.Tuy vậy “nói có
sách mách có chứng” hay căn cứ vào những gì đã được nghiên cứu và
công nhận thì vẫn được nhiều người nghe hơn.
CƠ CHẾ THIỀN ĐỊNH
Những tác dụng và ảnh hưởng của thiền định có thể được thể hiện dưới 3 cơ chế sau đây.
Cơ Chế Tín Ngưỡng
Tư tưởng Phật giáo không chủ trương
thần thánh hóa, tôn thờ một thần linh hay đấng thượng đế nào. Do đó
nhiều khi Đao Phật được xem không phải là một tôn giáo để tín đồ cầu
xin phép lành, ân huệ, hay cứu rỗi như trong các đạo khác. Giáo lý
nhà Phật rất thực tiển và thấu triệt: mọi sự vật đều bị chi phối bởi
vô thường biến đổi, nhân qủa nghiệp duyên và trầm luân sinh tử. Thiền
định được xem như trái tim của nhà Phật và là trung tâm của đời sống
đạo hạnh giúp đạt đến mức độ cao xa của tỉnh giác. Từ trạng thái vô
minh hay tiêu cực mê mờ của tâm tiến lên trạng thái tích cực sáng
suốt hay minh tâm kiến tánh. Mọi chúng sanh đều có Phật tánh (chơn
tâm, bản lai diện mục) hay cái tâm thuần khiết trong sáng, nhưng bị
những phiền não tham sân si che lấp như án mây đen phủ kín bầu trời.
Thiền định có công năng giúp tâm được thanh lọc dứt trừ mọi cấu nhiễm,
đạt an lạc thanh tịnh và giác ngộ giải thoát như trời quang mây tạnh,
trăng sáng rỡ ràng. Cũng chính là lúc ông Phật hiện ngay trong tâm
mình không phải tìm kiếm đâu xa. Đó là ý niệm “tức Tâm tức Phật” của
Đạo Nhất Mã Tổ, hay hiện tượng đại ngộ “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ
tâm” (Kinh Kim Cang) của Lục Tổ Huệ Năng, trụ tâm đến không chỗ trụ
mà sanh được tâm kia, cái tâm tĩnh tịch – tròn đầy – trong sáng.
Vạn pháp do tâm tạo, những bệnh tật
khổ đau là do tâm duyên theo trần cảnh, môi sinh ô nhiễm độc hại và
cuộc sống bon chen hỗn tạp đầy căng thẳng bức xúc, thì cũng chính tâm
sẽ chữa trị chúng qua thiền định.
Trong Đạo Thiên Chúa, căn bản thần học
trong thiền định được xem là nằm tận đáy lòng con chiên, là tâm của
Giêsu – người đang cầu nguyện trong con chiên, với con chiên và cho
con chiên. Đây là sự quán chiếu diễn tả tột đỉnh đời sống tâm linh và
trí thức một cách tích cực trong trạng thái tỉnh giác hoàn tòan.
Ấn Độ là xứ có truyền thống lâu đời
về thiền định, ngay cả trước thời Phật Thích Ca. Theo Ấn Giáo, danh
từ thiền định được hiểu như là một trạng thái tĩnh lặng, tỉnh táo và
tập trung một cách ráo riết, qua đó tri thức và tỉnh giác được đánh
thức dậy từ bên trong, khi chú tâm vào một sự vật hay một dòng tư
tưởng cho đến lúc đạt đến và hòa nhập vào sư bình yên thánh thiện,
đồng nhất với vũ trụ và thượng đế.
Trong phép thiền quán niệm hơi thở
(Anapana Sati), Đức Phật đã chỉ dạy trong Đại Tạng Kinh Pali
(Mahasatipatthana Sutta): Tỳ kheo tìm đến khu rừng, dưới gốc cây hay
nơi trống vắng, ngồi tréo chân, giữ lưng thẳng, chú ý hơi thở ra vào
nơi chóp mũi và khởi lên chánh niệm trước mình.
Khi chánh niệm được duy trì, hơi thở
càng trở nên nhẹ nhàng lặng lẻ, thân thể được êm dịu thanh thản như
có cơn gió nhẹ thoáng qua. Với sự tĩnh lặng của tâm, hơi thở càng trở
nên vi diệu cho đến lúc có cảm giác như ngừng thở, kéo dài trong
nhiều phút, nhưng thật sự hơi thở vẫn tồn tại. Dần dà tâm được giải
phóng khỏi 5 triền cái (ham muốn, giận hờn, hôn trần, trào hối và
nghi hoặc). Hành gỉa càng đạt thêm sự bình thản và an lạc. Các thiền
tướng bắt đầu xuất hiện báo hiệu thành qủa của chánh định. Hành gỉa
bắt dầu vào cận định (upacara samadhi) và khi chánh định phát triển
thêm nữa sẽ đạt đến toàn định (appana samadhi). Đến đây khai thông
cho sự chứng đạt nhất thiền, và tiếp tục miên mật sẽ vào các qủa
thiền cao hơn: nhị thiền, tam thiền và tứ thiền. Hành giả tiếp tục phát
triển chánh niệm qua tuệ quán (Vipassana). Ở mức độ cao hơn, tâm
trạng như được thoát tục và bắt đầu vào giai đoạn nhập lưu, rồi tiến
lên các qủa vị thanh văn khác trong chánh định. Khi mọi xiềng xích
trói buộc không còn dính mắc, dứt sạch ngã chấp, chứng quả vi thanh
văn thứ tư - A La Hán, ra khỏi luân hồi sanh tử. Hầu hết những đệ tử
lớn của Phật đều chứng đạt qủa vị này, ngoại trừ Đề Bà Đạt Đa mưu
toan giết Phật để được làm Phật.
Cơ Chế Tâm Lý
Tâm lý chung là khi những căng thẳng
hay phiền não dấy lên báo hiệu sự giày vò tâm trí, người ta có khuynh
hướng làm cho chúng lắng dịu thay vì phải chịu đựng. Khi một chuỗi
tư tưởng loạn động gây ra biến cố bức rức tâm trí, hành giả an trú
trong thiền định qua sự tập trung hay quán chiếu vào một đề mục làm
cho chúng tan biến đi. Từ đó đem tâm trở về trạng thái bình yên, tạo
dựng thái độ không còn sợ hãi khiếp nhược, là hiệu quả và đặc tính
căn bản của thiền định.
Một cơ chế khác về tâm lý là sự thiếu
lưu thông giữa các cơ năng tâm thần, gây nên sự bức bách ứ đọng bên
trong. Rất thường xuyên, các hiện tượng như lời nói, tưởng tượng, xúc
cảm là những ngăn kín chật hẹp mà thiền định là nhịp cầu giúp chúng
được thông thoáng hòa hợp với nhau. Chẳng hạn thường xuyên đặt sự
chú ý của tâm vào những tác động lên thân-khẩu- ý là một phương cách
thông thoáng hữu hiệu nhất.
Trái lại, nếu lạm dụng thiền định như
một hành vi đè nén - ức chế tâm thì có khi phải gánh chịu những hậu
quả khốc hại, như trong trường hợp qúa cuồng tín theo một phép thiền
sai lêch. Chẳng hạn khi hành giả niệm tên các vị thần linh hay các
thần chú vô nghĩa cả hàng ngàn lần, cho đến khi trở thành nhàm chán,
tâm trí mờ mịt, lạc vào thế giới mộng du ảo tưởng, không còn lý luận
hay phán đoán được gì. Từ đó phát sinh những cảm thọ hỉ lạc giả
tưởng, không thể phân biệt qúa khứ-hiện tại-vị lai hoặc ngay cả sự
chết. Đây là trường hợp bị “tẩu hỏa nhập ma” mà chính đương sự không
hề hay biết, chỉ có người ngoại cuộc mới nhận thấy những hành vi bất
thường - điên dại của mình qua sinh hoạt hàng ngày. Do vậy, trong lúc
ngồi thiền, phải luôn cảnh giác, tỉnh thức, và giữ chánh niệm. Nếu
cảm thấy qúa si mê hôn trầm thì nên đứng lên hay rời khỏi bồ đoàn.
Có một hiện tượng tâm bệnh xảy ra cho
một tu sĩ trẻ tuổi tại ngoại ô Lhasa - Tây Tạng. Tu sĩ này sinh tâm
không thích ngôi chùa mình đang tu tập, nằm ngay dưới chân một ngọn
đồi, mà lại phóng tâm ưa thích một ngôi trường kế cận. Từ đó tu sĩ
khởi sinh một ý tưởng là mong cho ngọn đồi trượt xuống và đè bẹp lên
ngôi chùa trong khi ngôi trường thì vẫn còn nguyên vẹn. Thế rồi cái
tâm bất thiện này cứ bủa vây trong đầu óc người tu sĩ, đến nổi biến
thành chứng nhức đầu bức rức và thần kinh khủng hoảng. Cuối cùng tu
sĩ thú thật và xin vị trụ trì ngôi chùa cứu giúp. Thầy trụ trì
khuyên từ đây luôn luôn quán niệm cho ngọn đồi thật sự đè nát ngôi
chùa, đè bẹp mọi thứ trong chùa kể cả thân mạng của chính mình. Người
tu sĩ trẻ làm y lời thầy và chỉ trong một thời gian ngắn thì hết
chứng đau đầu và không còn ảo tưởng này nữa.
Chung qui, điểm căn bản trong tiến trình
hành thiền là sư chú tâm, và quan trọng hơn hết, chú tâm là một sự
thực hành trong kiên nhẩn chứ không phải lý thuyết gì xa xôi. Có một
thiền sinh cảm thấy rất khổ sở vì không đạt được thành qủa trong công
phu hành thiền nên đến yết kiến thiền sư của mình và nhờ chỉ cho
cách vượt qua chướng ngại. Vị thiền sư đang trong thời kỳ tịnh khẩu
nên chỉ viết ra trên giấy chữ “chú tâm”. Thiền sinh không hiểu nên
nhờ thầy giảng thêm. Thiền sư lại viết thêm “chú tâm, chú tâm”và trao
cho đệ tử. Người đệ tử vẫn không đạt được ý thầy mình muốn nói gì
nên đòi giải thích thêm nữa. Cuối cùng thiền sinh nhận đươc toàn bài
học trên giấy: “chú tâm, chú tâm, chú tâm…có nghĩa là chú tâm”.
Cơ Chế Sinh Lý
Thật hết sức khó khăn khi phải sử
dụng các kỹ thuật và dụng cụ khoa học đề đo lường và kiểm nghiệm
những biến chuyển của cơ thể trong lúc hành thiền, nhưng người ta vẫn
có thể thực hiện và chứng minh được những tác dụng hữu ích của
thiền.
Cơ thể con người có những phản ứng tự
động không qua ý thức để thích ứng với môi trường sống như các phản
ứng run rẩy khi rét lạnh, tim đập nhanh khi chạy nhảy, toát mồ hôi
khi trời nóng nực, v.v. Tuy nhiên với những cố gắng có ý thức như qua
thiền định người ta cũng có thể điều khiển được những phản ứng tự
nhiên này.
Hành giả lần đầu tiên khi thâm nhập
sâu vào thiền định, hơi thở trở nên chậm rãi, nhẹ nhàng, và có khi
ngưng trệ hoàn toàn, chính lúc này có thể trải nghiệm đối diện qua
cơn sợ hãi bị ngừng thở và sự chết. Nhưng mối nghi được xóa tan ngay
qua sự chú tâm vào hơi thở và giữ vững chánh niệm.
Sự hô hấp giảm thiểu hoặc ngừng trệ
gây nên tình trạng “hypoxia” - lượng oxy trong máu giảm hạ, có tác
dụng làm phóng thích các hormone (endorphins) gây mê và tạo cảm giác
êm ái dễ chịu. Những chứng nghiệm cho thấy các đạo sĩ yogi Ấn Độ có
thể điều chỉnh lượng oxy trong máu theo ý muốn của mình và tự chôn
sống trong một thời dài mà không hề hấn gì. Các thiền sư Nhật Bản
cũng có thể làm giảm nồng độ oxy 20% trong lúc hành thiền. Với thiền
tiên nghiệm TM, lượng oxy có thể giảm đến 40% và tỷ lệ hô hấp chỉ còn
50%, nhiều hơn gấp bội so với lúc ngủ mê. Điều này chứng tỏ tác dụng
hiệu qủa của thiền định trong tiến trình biến hoá của thân-tâm.
Những khóa thiền kéo dài 30-40 phút cho
thấy lượng lactate giảm hạ và lượng phenylalanine tăng lên 20% trong
các cơ mô. Hành thiền cũng làm cho lượng máu đến thận và gan giảm đi
trong khi lượng máu đến não gia tăng, huyết áp gia giảm tạo ảnh hưởng
tốt cho các bệnh tim mạch. Tính đối kháng của da cũng gia tăng làm
giảm hoạt động giao cảm và nhờ đó đem lại trạng thái thư giãn.
Những kết qủa thực nghiệm cũng cho thấy
việc hành thiền làm giảm những kích thích tố gây căng thẳng như
cortisol và ATCH, hormone kích thích tuyến giáp TSH và hormone tăng
trưởng; trong khi gia tăng hormone thư giãn serotonin và hợp chất
arginine vasopressin giúp cho trí nhớ và sự học tập.
Kỹ thuật điện não đồ EEG
(ElectroEncephaloGraphy) khám phá một điều mới lạ qua hành thiền là
làm giảm thiểu các sóng não kích động như beta và delta trong khi gia
tăng các sóng có tác dụng êm dịu như alpha, gamma và theta.
Khoa học gia thần kinh Richard
Davidson công bố kết quả nghiên cứu vào đầu năm 2005, khi sử dụng EEG
để đo sóng não các vị sư Tây Tạng trong lúc hành thiền từ bi quán.
Kết qủa cho thấy các nhà sư luôn luôn có sự hoạt động rất cao của
sóng gamma so với người bình thường. Trong thiền định, sự hoạt động
của não bộ tập trung ở vùng não phía trước (prefrontal cortex), nơi
đây các sóng liên hệ có tác dụng tạo nên sự an lạc và tỉnh giác rất
sâu và lâu bền.
Vài kỹ thuật tinh vi hơn như fMRI
(functional magnetic resonance imaging), cho biết kết quả ngay trong
một thời gian ngắn, được sử dụng đo dòng máu trong não và sự hoạt
động của não, cho thấy thiền định không có tác dụng như khi ngủ nghỉ
mà là một trạng thái thư giãn trong tỉnh thức.
NHỮNG PHÉP THIỀN TRỊ LIỆU
Hiện tại có rất nhiều phương pháp
hành thiền khác nhau của các tôn giáo và trong dân gian, nhưng được
nghiên cứu và áp dụng trị liệu nhiều nhất là thiền Tập Trung CM
(Concentrative Meditation) và thiền Chánh Niệm MM (Mindfulness
Meditation).
Thiền Tập Trung
Thiền tập trung thường được sử dụng như
là phương pháp căn bản cho hành giả mới bắt đầu và cũng dành cho bệnh
nhân. Người tập thiền chỉ cần chú tâm vào một sự vật như hơi thở, âm
thanh, lời niệm, vân vân. Một kỹ thuật đơn giản là có thể ngồi hay
nằm (bệnh nhân) thoải mái ở một nơi yên tĩnh, không khí trong lành,
mắt nhắm hay mở và chú ý theo dõi hay đếm hơi thở ra vào, tiếng tí
tách của đồng hồ, hoặc niệm một vài chữ hay lời kinh mình ưa thích.
Khi chú mục như vậy, vọng tưởng lắng dịu, nhịp điệu hơi thở dần dà
trở nên chậm rãi nhẹ nhàng, giúp thân tâm được thanh tịnh và an ổn.
Những phép tụng niệm như tụng kinh -
niệm chú, thì hầu như các tôn giáo đều áp dụng tương tự như nhau.
Pháp môn niệm Phật cho đến “nhất tâm bất loạn” cũng chẳng khác gì một
phương pháp hành thiền đạt đến sự định tâm. Nhiều Phật tử theo phép
Thiền-Tịnh song tu hay vừa tham thiền vừa tụng kinh niệm Phật. Bên
Thiền Tông cũng thường tụng Bát Nhã Tâm Kinh trong các khóa thiền.
Một thiền sư Việt Nam cho biết có lần mình ngồi thiền niệm “Nam mô
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” thì tự nhiên cứ thấy phải niệm liên tục
như vậy trong suốt cả buổi sáng, không dừng lại được. Từ đó thiền sư
này bắt đầu chú trọng về phép niệm Phật. Các thiền đường Lâm Tế ở
Nhật cũng thường cho thiền sinh một thoại đầu hay công án để quán
tưởng. Như trong công án “vô”, thiền sinh trong lúc ngồi thiền niệm
thành tiếng kéo dài “mu…” Một công án khác là “tiếng vỗ của một bàn
tay”. Có một thiền sinh nhận công án này rồi cứ phải suy tưởng là tiếng
gì, sau đó đem trình thầy những đáp án như tiếng chuông ngân, trẻ
khóc, chó sủa, chim hót, ngựa hí, còi hụ, v.v. nhưng đều bị từ khước
và bắt phải cố gắng nhiều hơn nữa. Thiền sinh tiếp tục quán chiếu đến
lúc tâm tư mệt mỏi chán chường, không còn sức phấn đấu muốn bỏ cuộc,
thì đột nhiên khởi lên một ý niệm và vội vã tìm đến trình thầy… đó
là tiếng vọng của sự im lặng, tương hợp với ý thầy.
Trong thiền tông Trung Quốc cũng có
những thiền sư thích niệm một cái gì trong lúc ngồi thiền như “Tĩnh
tĩnh lặng lặng, Liễu liễu thường tri” (Tĩnh tĩnh lặng lặng, Rõ ràng
thường biết) để nhắc nhở tâm luôn được tỉnh giác. Phật tử trong môn
phái Nhật Liên chỉ chú trọng vào Kinh Pháp Hoa và niệm một câu duy
nhất “Namu Myo Ho Len Ge Kei” (Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh). Trong
phép niệm Phật thì “Namu Amita Buddha” (Nam Mô A Di Đà Phật) hay
niệm danh hiệu các vị Bồ Tát như Quan Âm, Địa Tạng, v.v. Trong Mật
Tông Tây Tạng và Mông Cổ, người tu niệm sâu trong cổ họng âm thanh
nghe rất trầm hùng câu chú “Om Mani Pad Me Hong” (Án Ma Ni Bát Di
Hồng).
Trong Thiên Chúa Giáo, các con chiên cũng hành thiền khi tụng kinh cầu nguyện vào mỗi tối trước khi ngủ.
Có một số Phật tử Việt Nam tu theo
phép thiền xuất hồn (thiền Ông Tám), hiện tại được gọi là “Pháp Lý Vô
Vi Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp”. Theo nguyên văn ghi trong website
chỉ dẫn về phép thiền này “tập trung trí ý lên đỉnh đầu, với ý thầm
nguyện xuất hồn lên đảnh lễ Phật. Chỉ chú tâm lên xoáy óc một chút
thôi, rồi sau đó nhìn thẳng trung tâm giữa 2 chân mày lâu chừng nào
tốt chừng nấy, ý chí thả lỏng, tâm phẳng lặng và ý dỗ cho ngủ. Ngồi
càng lâu càng tốt. Khi thiền định, ngứa mình, tê chân hay có ý động
loạn thì chỉ niệm Nam Mô A Di Đà Phật ngay trung tim bộ đầu”.
Trong Tịnh Độ Tông cũng có rất nhiều
phương pháp giúp tâm không bị vọng động như niệm Phật theo hơi thở,
niệm liên tục không gián đoạn, tai lắng nghe âm thanh tiếng niệm, lần
theo chuỗi hột, tụng kinh theo tiếng mõ, quán tưởng hình ảnh chư
Phật-Bồ Tát, v.v..nhưng mục đích tối hậu là để đến phút giây lâm
chung được Tây Phương Tam Thánh (A Di Đà, Quan Âm, Thế Chí) đến rước
về Cửu Phẩm Liên Hoa miền cực lạc.
Đặc biệt trong 50 năm qua, các nước
phương tây đã áp dụng thiền tiên nghiệm TM (Transcendental
Meditation) cho nghiên cứu y học và ứng dụng trị liệu tại nhiều trung
tâm thiền, bệnh viện, công tư sở và học đường.
Thiền tiên nghiệm TM do đạo sĩ Ấn Độ
Maharishi Mahesh Yogi (1917-2008), theo truyền thống Vệ Đà, mang đến
Âu Mỹ từ năm 1958. Chủ trương của Maharashi là tạo ra một trung tâm
thiền TM cho mỗi một triệu người. Ông đã đào tạo gần 10,000 giảng
viên ở khắp nơi. Nhờ kỹ thuật đơn giản trong ứng dụng nên loại thiền
này rất được phổ biến. Cho đến nay đã có chừng 600 nghiên cứu khoa
học và y học về thiền TM liên quan đến trị liệu đối với nhiều loại
bệnh trạng khác nhau. Ngay trên đất Mỹ có một đại học mang tên
Mahashiri.
Phương pháp chung là mỗi ngày hành thiền
2 lần, mỗi lần 15-20 phút, truớc bửa ăn (bụng trống dễ hành thiền
hơn) với mắt nhắm lại. Phải do một người thầy hay giảng viên trực
tiếp chỉ dạy và đặc biệt truyền cho câu mật chú mantra, để hành giả
có thể niệm thầm hay niệm thành tiếng trong lúc hành thiền. Chương
trình gồm có 7 thứ mục với 2 bài học giới thiệu, một cuộc phỏng vấn,
và 4 buổi học (2 giờ) cho 4 ngày kế tiếp. Phương pháp thiền TM được
cho là khá giản dị, thiên nhiên và không gượng ép. Qua tiến trình
hành thiền, hành giả sẽ đạt đến một ý thức tiên nghiệm được gọi là
trạng thái chính yếu thứ 4 của ý thức, một trạng thái tỉnh thức hoàn
toàn, khác biệt với 3 trạng thái: thức tỉnh, nằm mơ và ngủ say.
Thiền tiên nghiệm đã được đăng ký và bảo
vệ với thương hiệu (trademark) TM, nên đã trở thành một loại sản
phẩm thương mại. Vào thời điểm năm 2007, có nơi học viên phải đăng ký
và đóng học phí đến 2.500 đô la cho một khóa học, kèm theo điều kiện
không được tiết lộ câu mật chú mà người thầy đã truyền cho, với lý
do là mật chú sẽ mất linh nghiệm nếu bật mí cho người khác biết. Tuy
trung thành với chủ trương của hệ thống huấn luyện thiền TM, nhưng
một số giảng viên khi viết tài liệu hay nghị luận cũng hé mở một số
chi tiết về phép thiền này. Ví dụ chọn một nơi yên tịnh, ngồi nhắm
mắt, giữ hơi thở tự nhiên, và tự chọn lựa cho mình một vài chữ
mantra, có tính cách nhẹ nhàng và trung tính, ví dụ như “tỉnh thức”,
“thư giãn”, v.v.. hay bất kỳ lời kinh câu kệ ưa thích nào của mình.
Có thể niệm thầm hay tụng lớn tiếng mantra này bằng cách lập đi lập
lại trong suốt thời gian hành thiền 15-20 phút. Khi tâm xao động cần
nhớ trở về với mantra và tiếp tục niệm như trước. Chỉ giản dị vậy thôi,
nhưng cũng có tác dụng thư thái dễ chịu như một giấc nghỉ trưa 1-2
giờ.
Người tây phương hành thiền TM tự do rất
thích các danh từ, một hình thức mantra, như “peace” (hòa bình) và
“love” (yêu thương). Nhưng cũng có khi đang niệm “love, love, love..”
giữa chừng bất chợt thành ra “I love candy” (tôi thích ăn kẹo) thì
phải làm sao? Đến lúc này chỉ cần nhớ lại mantra “love” và bắt đầu
niệm trờ lại cho tâm khỏi nhảy lăng xăng như con khỉ, “tâm viên ý mã”
là như vậy.
Một loại thiền tân thời được gọi là
thiền giải tỏa Avrassana của nhóm Theohumanity do Daniel Stacy Barron
- người Đức- sáng lập, đang còn trong thời kỳ thử thách. Nhóm này
chủ trương sự giải thoát cảm thể (Emotional Body Enlightnment): những
gì khởi lên trong lúc hành thiền được làm cho tan biến đi trước khi
rơi chạm vào người, tương tự như những vẩn thạch hay sao rơi bị tan
loãng trong bầu trời trước khi va chạm vào trái đất.
Thiền Chánh Niệm
Danh từ chánh niệm (sati) cũng được
biết là phát xuất từ chi thứ 7 trong Bát Chánh Đạo (bao gồm đầy đủ
Giới Định Huệ) thuộc phần Đạo Đế của Tứ Diệu Đế (Khỗ Tập Diệt Đạo) mà
Phật Thích Ca sau khi chứng đạt dưới cội bồ đề đã tìm đến vườn Lộc
Uyển khai thị và hóa độ cho năm anh em Kiều Trần Như. Thiền chánh
niệm đặt căn bản trên ý niệm về sự hiện diện đầy đủ của tâm trong
tỉnh giác khi nương theo hơi thở ra vào. Tâm luôn nhận thức dòng cảm
thọ, tư tưởng, âm thanh, mùi vị, v.v.. mà không gắn bó và liên lụy
với chúng. Hành gỉa ngồi thiền trong yên lặng và tỉnh táo, quan sát
một cách vô tư những gì đang xảy ra xuyên qua tâm; không phản ứng và
dính mắc với những kỷ niệm, hồi tưởng về quá khứ hay những suy tư, toan
tính đến tương lai. Hậu qủa là tâm đạt được trạng thái tĩnh lặng,
trong sáng và an ổn. Tuy lúc mới khởi đầu hành giả cũng cần trải qua
một thời gian thực hành phép thiền tập trung để luyện tâm cho thuần
thuật, rồi dần dà không còn chú mục vào một đề mục duy nhất nào. Trên
thực tế việc ứng dụng trị liệu của thiền chánh niệm được giản dị hóa
đi nhiều, không bó buộc phải tuân thủ triệt để các phép thiền chỉ
(Samatha) và thiền quán (Vipassana) của giới tu sĩ.
Kỹ thuật thông thường là tự tìm một
nơi yên tịnh, thoáng sạch, vào sáng sớm hay chiều tối, ngồi xếp bằng
thẳng lưng trên sàn nhà có kê gối đệm (bồ đoàn), hoặc cũng có thể
ngồi trên ghế và đặt 2 chân thoải mái trên sàn nhà. Hai bàn tay chồng
ngửa lên nhau trên đùi với 2 ngón cái chạm nhau, mắt có thể nhắm lại
hay hé mở tùy nghi. Nếu ngồi được theo thế kiết gìa hay bán gìa thì
càng tốt, nhưng rất dễ bị đau chân cho người mới tập. Bắt đầu hít thở
một cách tự nhiên và đều hòa. Nếu tâm bị chi phối do vọng tưởng khởi
lên thì nên tập trung vào hơi thở bằng cách đếm hay theo dõi hơi
thở, hoặc niệm một vài chữ như “chánh niệm”, “tỉnh giác”, v.v..Trong
những ngày đầu chỉ cần tập 5-10 phút, sau đó tăng lên từ từ 15-20-30
phút hay nhiều hơn tùy theo khả năng. Khi tâm trở nên ổn định hơn,
chỉ cần quan sát ghi nhận một cách khách quan những gì đang xảy ra.
Hãy để cho những vọng tưởng, hình ảnh, âm thanh, v.v.. khơi dậy, lưu lại
và biến đi một cách tự nhiên, không kích động, không đè nén hay xua
đuổi chúng, không thêm không bớt và không quan tâm gì đến chúng. Sau
khi xả thiền nên làm những vận động cơ thể nhẹ nhàng như các thế tập
hatha-yoga, khí công, taichi hoặc đi kinh hành, để giúp thân trở lại
trạng thái bình thường và máu huyết lưu thông.
Kiên nhẩn thực tập sau vài ba tháng
thì có thể hội nhập được với thiền tùy căn cơ của mỗi người. Hành giả
có thể chia làm 2 thời hành thiền khác nhau: (1) chính thức nên dành
một thời biểu nhất định cho việc ngồi thiền hàng ngày, (2) bán chính
thức là thực tập theo tuệ quán tứ niệm xứ (Vipassana) vào bất cứ lúc
nào thuận tiện. Ví dụ như khi ăn chỉ chú ý vào việc ăn, biết mình
đang gắp thức ăn, nhai, nuốt, mỗi động tác đều biết rõ ràng như vậy.
Khi đi để ý theo những bước chân, khi nằm chú tâm vào hơi thở ra vào
theo sư phồng xệp lên xuống của bụng, vân vân. Nên bỏ dần những thói
quen làm nhiều việc cùng một lúc như vừa ăn cơm, vừa xem tivi, vừa
nghe điện thoại. Thêm vào đó lúc thuận tiện cũng có thể tập xen kẻ
thêm phép quán từ bi hay trải lòng thương của mình đến người khác,
bắt đầu từ bản thân mình rồi vươn dần ra đến những người thân, bạn
bè, bà con họ hàng, kẻ thù, muôn loại chúng sanh.
Đối với những nghiên cứu khoa học và y
học, người ta thường thực hành thiền chánh niệm theo phương pháp 8
tuần lễ thư giãn của tiến sĩ Jon Kabat-Zinn trong chương trình MBSR
(Mindfulness Based Stress Reduction), được phát họa từ năm 1979 tại
đại học Massachusetts - nước Mỹ. Học viên tham gia khóa thiền 2 gìờ
mỗi tuần, nhưng về nhà tự thực tập 45 phút mỗi ngày theo hướng dẫn
trong đĩa ghi âm, và sau cùng tham dự một ngày dài thảo luận về kết
quả. Có trên 250 cơ sở như bệnh viện, trường học, trung tâm cộng
đồng, v.v.. ở khắp nơi, hoặc làm công tác nghiên cứu, hoặc ứng dụng
trị liệu, hoặc cho cả hai theo phương pháp này.
TRỊ LIỆU
Những triệu chứng và bệnh trạng sau đây
đã được nghiên cứu và trị liệu qua ứng dụng thiền định như một phương
pháp bổ sung – thay thế.
AIDS (Sida)
Bệnh AIDS là do vi khuẩn HIV (human
immunodeficiency virus) tấn công và giết hại những tế bào hồng huyết
cầu lymphocytes (CD4T) - giữ nhiệm vụ bảo vệ hệ miễn nhiễm (immune
system). Loại vi khuẩn này dần dà làm cho cơ thể mất khả năng kháng
lại sự nhiễm trùng và vài loại ung thư. Nhiều biến chứng do HIV gây
ra gồm cả tử vong là do hậu quả của nhiễm trùng chứ không phải trực
tiếp từ HIV. Khi số lượng tế bào CD4T giảm sút dưới mức 200 hay với
những triệu chứng phát khởi rõ ràng là bệnh nhân đã thực thụ nhiễm
bệnh.Vi khuẩn có thể được truyền nhiễm qua máu hay dịch thể giao cấu,
rồi phát triển, lây lan, phá hoại các tế bào, mà nhiều khi bệnh nhân
không hề hay biết trong vòng vài tháng cho đến nhiều năm. Có chừng
40 triệu bệnh nhân niễm bệnh AIDS trên toàn cầu.
Kết qủa nghiên cứu mới đây (7/2008)
tại đại học California – Los Angeles cho biết một kẻ thù khác của
AIDS là sự căng thẳng bức xúc (stress) càng làm tăng tốc sự giảm sút
các tế bào hữu ích CD4T. Ứng dụng thiền chánh niệm có tác dụng gia
tăng số lượng tế bào này, do đó làm chậm lại hay chận đúng tiến trình
bệnh AIDS.
Những bệnh nhân AIDS được chia thành 2
nhóm: nhóm tập thiền theo chương trình 8 tuần lễ MBSR của Kabat-Zinn
và một nhóm khác không tập thiền để so sánh. Kết quả đạt được là bệnh
nhân nhóm tập thiền trung bình tăng thêm 20 CD4T trong khi bệnh nhân
nhóm kia mất đến 185 CD4T. Những chương trình huấn luyện thiền chánh
niệm cho tập thể được xem là ít tốn kém và có triển vọng trở thành
một phương pháp trị liệu bổ sung – thay thế cho những bệnh nhân AIDS.
Ung Thư
Nguyên nhân của ung thư là do một nhóm
tế bào bộc phát bất bình thường vươt qúa giới hạn, xâm nhập phá hủy
các mô kế cận và lan truyền đến những nơi khác của cơ thể tạo thành
các bướu ung thư. Bệnh ung thư ảnh hưởng mọi lứa tuổi ngay cả bào
thai, nhưng thường gia tăng với tuổi tác. Chứng ung thư gây tử vong
13% trên tổng số các loại bệnh trạng khác.
Những nghiên cứu y học đã xác minh thiền
định giúp giảm thiểu lo lắng, bức xúc, đau nhức, huyết áp, mất ngủ
và từ đó có thể được áp dụng giúp bệnh nhân ung thư vượt qua những
cơn đau, căn thẳng, hoảng sợ, v.v..cũng như tăng cường sức phòng thủ
và đề kháng của hệ miễn nhiễm hầu bảo vệ cơ thể người bệnh.
Có những phương pháp trị liệu hiện
đại như sử dụng các kỹ thuật đốt bằng tia phóng xạ hay qua phẫu thuật
cắt bỏ phần mô ung thư, nhưng đây là loại bệnh trạng chí mạng cần
được phát hiện sớm sủa và chữa trị kịp thời.
Bác sĩ tâm thần người Úc, Ainslie
Meares, với những nghiên cứu riêng của mình được tường trình từ năm
1976, đã đề nghị sử dụng thiền định hoặc riêng rẽ hoặc cùng chung với
các phép trị liệu khác cho các chứng ung thư. Qua đó thiền định
không những làm tăng cường sức đề kháng của hệ miễn nhiễm mà quan
trọng hơn cả là giảm hạ những căn thẳng từ những cơn đau cũng như
những ưu phiền, lo toan, sợ hãi, số phận hẩm hiu của bệnh nhân. Phép
hành thiền gồm 3 yếu tố: thân an tịnh, niệm mantra và vận động nhẹ,
ít nhất tập một giờ mỗi ngày. Đăc biệt tránh cho bệnh nhân sự giao
tiếp qua chữ viết, âm thanh hay lời nói có tính cách lý luận hay học
hỏi, hầu tránh làm nhiễu loạn tâm trí người bệnh. Ông ta tiến hành
trị liệu cho 17 bệnh nhân ung thư trong giai đoạn bệnh đã phát triển khá
cao hay ở giai đoạn cuối. Các bệnh nhân hoặc không hề có sự trị liệu
chính thống hoặc đã nhận sự trị liệu từ thuốc hay phóng xạ vài tháng
trước đó. Kết qủa cho thấy họ đã có thể sống thêm trung bình một
năm, trong khi các phép trị liệu khác phải chịu bó tay và cho biết là
chỉ chờ ngày chết.
Vào tháng 11 năm 1979, trên tạp chí
Medicine Journal Australia, bác sĩ Mearses báo cáo về một trường hợp
ung thư ruột kết (colon) của một người đàn ông 64 tuổi, một nhà tâm
ly học. Ông ta không chịu giải phẫu mà thích hành thiền trung bình 3
giờ mỗi ngày. Chỉ sau 2 tuần lễ đã thấy có sự cải thiện. Sau 6 tuần
thì chấm dứt sự trợ lực bôm thụt vào hậu môn – giúp lưu thông ruột
kết. Sau 2 tháng không còn chứng thức giấc giữa đêm. Sau 6 tháng phân
trở lại kích thước bình thường và sau 1 năm thì dứt hẳn chứng ung
thư.
Phương pháp ứng dụng thiền chánh niệm
trong chương trình thư giãn MBSR của Jon Kabat-Zinn đã được sử dụng
khá nhiều trong nghiên cứu ung thư, trong số đó một thí nghiệm trên
90 bệnh nhân cho thấy giảm được 31% các triệu chứng căng thẳng bức
xúc và 67% tính khí bất thường khi so sánh với các bệnh nhân không
hành thiền.
Nhiều nghiên cứu y học về thiền định cho
đến nay thường chỉ giới hạn thời gian hành thiền rất ngắn, nên không
có cường độ tác dụng lớn như thời gian 3 giờ hay nhiều hơn. Một điều
dễ hiểu là những bệnh nhân ung thư, tuy có nhiều thì giờ, nhưng lại
không còn đủ ý chí vững mạnh, kiên nhẩn và sức chịu đựng với thời
gian hành thiền quá dài nếu không nhận được sự khuyến khích và chỉ
bày thích đáng.
Tim Mạch
Bệnh tim bao gồm nhiều hình thức khác
nhau, là bệnh gây tử vong nhiều nhất ở các nước phát triển, như ở Mỹ
cứ 34 giây là có một ngươì chết về bệnh này. Nguyên nhân thông
thường là những mạch máu bị thu hẹp hay tắc nghẽn do chất mỡ tích tụ
bên trong thành mạch, gây khó khăn cho máu lưu thông và cung cấp oxy
đến tim. Các cơ thịt của tim bị thiệt hại do một nguyên nhân nào đó
làm giảm sút khả năng bôm máu của tim đến các nơi khác trong hệ tuần
hoàn. Khi tín hiệu nội điện (internal electrical signal) của tim bị
xáo trộn làm tim không thể bôm máu một cách bình thường, nhịp tim trở
nên rối loạn lúc nhanh lúc chậm gây vấn đề cho tim.
Sự bất thường của van tim là một
nguyên nhân khác, 4 van tim thay nhau điều khiển lưu lượng máu vào
hay rời khỏi tim. Van tim bị hẹp làm tim khó đẩy máu đi và nếu van
tim bi hở làm máu bị rò rỉ trở lại, không bôm hết lượng máu.
Các triệu chứng thông thường của bệnh
tim là thở gấp, hồi hộp đánh trống ngực, yếu đuối, chóng mặt, mệt
mỏi, buồn nôn, ra mồ hôi, cảm giác muốn ngất xỉu, vùng tim ngực bị đè
ép, nặng nề, đau nhói và có khi lan ra kế cận đến lưng, quai hàm và
tay.
Có 2 cuộc thử nghiệm ở Mỹ ứng dụng
thiền tiên nghiệm TM vào những thập niên 1980 và 1990 cho thấy những
người bị bệnh tim có thể giảm tỉ lệ tử vong xuống 30%. Bác sĩ Robert
Schneider thuộc đại học Maharishi đã lên tiếng rằng đây là sự kiện
phát hiện có ý nghĩa đáng kể, chứng tỏ thiền định có thể được sử dụng
như một phương pháp trị liệu hữu hiệu cho bệnh tim.
Một thử nghiệm khác (3/2007) tại đại
học Pennsylvania qua tập thiền TM trong 3 tháng và 6 tháng đối với
bệnh nhân sung huyết tim (congestive heart failure) cũng cho thấy rõ
những cải thiện về phẩm chất đời sống, chứng trầm cảm, và sự giảm bớt
số lần trở lại bệnh viện. Thiền định giúp giảm hạ tác động của hệ
giao cảm (gây căng thẳng bức xúc) trong khi tăng cường khả năng của
hệ phản giao cảm với tác dụng ngược lại.
Tương tự, tại trung tâm y khoa
Cidars-Sinai, Los Angeles, Paul-Labrador hướng dẫn một thử nghiệm
khác với 103 bệnh nhân vành mạch tim (coronary heart disease). Trong
số này, 52 bệnh nhân tập thiền TP trong 16 tuần lễ và 51 bệnh nhân
khác không tập thiền để so sánh. Trước và sau cuộc thử nghiệm, bệnh
nhân được thử máu, xét lý lịch y khoa, thử chức năng mạch máu, và sự
biến đổi nhịp tim. Kết qủa là những bệnh nhân tập thiền giảm hạ huyết
áp rất đáng kể, cải thiện lượng đường và insulin trong máu, cũng như
ổn định chức năng của hệ thần kinh tự động. Ngoài ra còn có những
nguyên nhân phụ thuộc ảnh hưởng bệnh tim như thiếu vận động, thức ăn
không lành mạnh, sự béo phì, sư căng thẳng búc xúc trong xã hôi đa
tạp, tạo ra những kích thích tố có hại như cortisol và những chất tác
động truyền dẫn thần kinh, rất tai hại cho hệ tim mạch. Việc hành thiền
có tác dụng điều hợp hữu hiệu những căng thẳng, giảm hạ sự tiết ra
các kích thích tố này. Thêm vào đó, phương pháp từ bi quán
(compassion mediattion), hay trải tình thương đến những chúng sanh
khác, được xem là có công năng tác động lên hệ phản giao cảm
(parasympathetic) giúp tim chậm lại và gia tăng hệ số biến đổi của
nhịp tim, nhờ đó tim được khỏe mạnh hơn và giảm nguy hiểm bị bệnh.
Bác sĩ Vermon Barnes cũng hướng dẫn
một thử nghiệm trên 111 trẻ vị thành niên và tìm thấy những em tập
theo những khóa thiền TM -15 phút có khả năng làm tăng sự mở rộng
huyết quản thêm 21% trong khi những em không tâp thiền lại bị giảm đi
4%. Do đó đi đến kết luận rằng hành thiền có thể thay thế cho các
liều thuốc làm giảm hạ lượng mỡ trong cơ thể.
Liên hệ đến bệnh tim có các chứng cao huyết áp và đột qụy (tai biến mạch máu não).
Trung bình cứ trong 8 người là có một
người bị cao huyết áp, loại bệnh âm thầm thường không có triệu chứng
rõ ràng nhưng lại rất nguy hiểm, có thể dẫn đến suy tim hay đột qụi
bất ngờ. Huyết áp do sức ép của máu lưu thông lên thành mạch khi tim
co thắt đẩy máu đi. Số đo huyết áp bình thường là 120/80. Huyết áp
trên giới hạn 135-140/85-90 được xem như bắt đầu có triệu chứng cao
huyết áp. Bệnh này thường do các chất kết tụ bên trong mạch máu như
cholesterol làm nghẽn sự lưu thông và do đó làm tăng huyết áp. Cũng
cần kể thêm các yếu tố di truyền hay môi trường và hoàn cảnh sống dễ
gây căng thẳng làm cơ thể tiết ra những kích thích tố bất lơị làm
tăng huyết áp. Một trong những nghiên cứu cho thấy tập thiền TM có
thể làm giảm huyết áp đến 10.7/6.4 (ví dụ 140/90 – 10.7/6.4 =
129.3/83.4).
Chứng đột qụy là do một hay nhiều mạch
máu trong não bị tắc nghẽn vì các chất như cholesterol tích tụ, gây
bán thân bất toại hoặc, tàn tật suốt đời hay tử vong.
Những nghiên cứu và ứng dụng thiền định
trong y học, nhất là cho chứng cao huyết áp, trực tiếp ảnh hưởng đến
bệnh tim và đột qụi, mang lại kết quả rất hữu ích và khích lệ.
Tê Khớp (Thấp Khớp)
Có hàng trăm thứ bệnh tê khớp, nhưng
tổng quát có 3 loại chính yếu là do khớp xương có mô sụn bị vỡ, viêm
khớp do mô sụn bị xóa mòn gây sưng nhức và chấn thương khớp xương do
tai nạn gây nên. Những triêu chứng đau nhức có thể thường xuyên hay
cách quảng. Cơn đau thường xảy ra trong lúc di động nhưng cũng có thể
vào lúc nghỉ ngơi. Người bệnh cảm thấy đau nhức chỉ một nơi hay lan
tỏa khắp cơ thể, các khớp xương có vẻ như cứng lại và mất sự uyển
chuyển. Vùng da trên khớp xương đau có thể sưng đỏ lên. Bệnh tình
thường gây mệt mỏi chán nản và đi đứng vận động khó khăn.
Y học hiện đại không có phương cách
điều trị dứt căn bệnh mà chỉ có thể làm giảm hạ các triệu chứng đau
nhức như dùng các loại thuốc chống đau, chống viêm và thuốc an thần,
tập luyện các môn vận động nhẹ giúp cơ thể linh hoạt, giảm đau và sau
cùng là dùng phẫu thuật.
Một thí nghiệm nghiên cứu ứng dụng
thiền chánh niệm trên chứng tê khớp kinh niên (rheumatoic anthritis)
tại đại học Maryland tháng 10/2007 cho thấy rằng mức độ căng thẳng và
trầm cảm của bệnh nhân giảm hạ 35% sau 6 tháng tập thiền.
Ứng dụng thiền chánh niệm bằng cách
ngồi thoải mái ở một nơi yên tĩnh, mắt nhắm, chú ý vào sự phập phồng
của bụng theo hơi thở ra vào (bụng phồng khi hít vào và bụng xệp khi
thở ra) với cảm giác như đang trôi theo dòng hơi thở, nếu tâm giao
động, chỉ đơn thuần trở về chú ý vào hơi thở. Ví dụ như bất chợt nghe
một âm thanh, tiếng nhạc, chuông điện thoại, v.v. chỉ cần biết như
vậy, nghe như vậy mà không suy nghĩ phán đoán gì thêm. Cần chú tâm
vào sự im lặng giữa các âm thanh xảy ra. Cách hành thiền chánh niệm
như vậy có thể giúp làm mất tác dụng của sự căng thẳng và cơn đau
nhức.
Một thí nghiệm khác được thực hiện ở
trung tâm y khoa đại học Massachusetts trên 90 người mang chứng đau
nhức kinh niên. Sau 10 tuần lễ tập thiền, các cơn đau, việc sử dụng
thuốc và các triệu chứng lo buồn giảm hạ trong khi sự tự tin, hoạt
bát và lạc quan gia tăng. Những phản ứng thuận lợi này còn được duy
trì cho đến 15 tháng sau, trong khi nhóm những người không tập thiền
không cho thấy dấu hiệu cải tiến nào.